nhiên. Darwin vội viết báo cáo kết quả của những năm nghiên cứu
của mình trong tác phẩm danh tiếng nhất và đánh dấu thời đại của
mình − tác phẩm Nguồn gốc của các chủng loại (The Origin of
Species) − xuất bản năm 1859. Wallace chia sẻ công trạng khoa học
ban đầu tại một buổi họp của Royal Society, đã không có được nhiều
kiện chứng như Darwin và không đối địch lại với Darwin trong chi
tiết. (Wallace sau này đã thỏa hiệp về những thức nhận Sinh vật học
của mình, khi ông gia nhập chủ thuyết “Duy linh” (Spiritualism) và
đặt con người ra ngoài Học thuyết Tiến hóa).
Cái hạt nhân lý chứng của Darwin về sự “Chọn lọc tự nhiên” là
một diễn dịch luận lý thanh nhã từ bốn khái quát hóa thực nghiệm lớn.
Hai khái quát hóa đầu là:
1. Có sự khác nhau trong các đặc tính của các cá nhân thuộc cùng
một chủng loại.
2. Những đặc tính của cha mẹ có xu hướng di truyền qua cho con
cái của họ.
Hai sự kiện khái quát này phát xuất từ nhiều quan sát trên thực vật
và động vật, và chúng cũng đã được đưa ra thể nghiệm trong việc gây
giống có chọn lọc cho nhiều loại cây và thú vật trang trại, chó và bồ
câu. Do đó, Darwin nói về sự “Chọn lọc tự nhiên” như một quá trình,
tương đương với sự Chọn lọc nơi con người, làm thay đổi chủng loại –
nhưng dĩ nhiên không chủ tâm. Hai tiền đề khác cho toàn bộ luận cứ
là:
3. Chủng loại tự bản chất có thể có một sự tăng trưởng dân số theo
cấp hình học (geometric rate: 1, 2, 3, 4, 5, 6...).
4. Tiềm lực của môi trường không thể hỗ trợ một sự tăng trưởng
như thế.
Sự thực của (3) căn cứ vào sự kiện, rằng mỗi cặp sinh vật có thể sản
sinh nhiều hơn là hai hậu duệ − trong nhiều chủng loại, hàng ngàn
mầm hay trứng được sinh sản. Hệ quả từ (3) và (4) là chỉ có một tỉ lệ
nhỏ mầm, trứng, con nhỏ đạt được trưởng thành. Trong thực tế, có sự