cạnh tranh để sống còn và tái sinh sản, vừa giữa các thành viên của
cùng một chủng loại và vừa giữa các chủng loại khác nhau. Điều này
không luôn luôn bao hàm sự đụng độ thân xác, như khi các cá thể cào
cấu đánh đá nhau để chiếm thực phẩm hay con trống chiếm con mái:
theo nghĩa Darwin đưa ra, thì cây cỏ tranh giành ánh sáng và chất dinh
dưỡng, và thú vật cạnh tranh để tránh bị phát hiện và ăn thịt bởi các
thú săn mồi.
Từ sự không thể tránh khỏi những cạnh tranh như thế, và từ (1),
chúng ta có thể diễn dịch ra rằng, vào mọi giai thời sẽ có một số cá thể
trong chúng dân − và bởi sự khác biệt của số cá thể này đối với các cá
thể khác − có khả năng tốt nhất để sống lâu hơn và lâu đủ cho việc để
lại hậu duệ. Những cá nhân đó có thể được miêu tả như những cá thể
“phù hợp nhất” (“fittest”) trong môi trường hay trong nơi sinh thái,
nơi đó bao gồm mọi yếu tố cần thiết cho cuộc sống của họ, bao gồm
cả các chủng loại thảo vật và động vật khác. Với (2), những đặc tính
của họ có xu hướng di truyền qua cho thế hệ tiếp theo, còn những đặc
tính ít thuận lợi hơn thì không.
Và như thế, xuyên qua nhiều thế hệ, những đặc tính tiêu biểu của
một chúng dân có thể thay đổi tới một mức độ quan trọng. Và với sự
nhìn nhận những thời kỳ bao la của quá khứ được chứng minh bởi
khoa Địa chất học, và với sự phân phối những cây cỏ và thú vật trong
những môi trường rộng lớn và khác nhau trên khắp thế giới, thì nhiều
chủng loại khác nhau có thể được phát triển từ những vị tổ chung. Tất
cả những gì cần phải có là sự thúc bách liên lỉ của Chọn lọc tự nhiên
tác động trên những khác biệt bên trong các chúng dân trong những
môi trường khác nhau. Không cần thiết phải giả định một sự di truyền
các đặc tính đã đắc thủ được theo như Lamarck, mặc dầu Darwin có đi
bước lùi trong điểm này, bởi ông khi ấy chưa biết cơ sở phát sinh
(genetic basis) của những mẫu hình di truyền được tổng hợp trong (1)
và (2).