tự cho sự sinh sản có lựa chọn của thú vật. Nhà nước có nhiệm vụ phải
ngăn ngừa những con người “hạ cấp” được sinh ra (Ưu sinh tiêu cực)
và khuyến khích sự sinh sản những típ người “cao cấp” (Ưu sinh tích
cực).
Phong trào Ưu sinh nhận được tán thưởng từ mọi thành phần
chính trị, từ các nhà cải cách chí ít cũng nhiều như cánh bảo thủ, ngoại
trừ giáo hội Công giáo La Mã. Trong những thập niên đầu thế kỷ XX,
nhiều bang thuộc Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và các nước Scandinavian
đã thông qua luật cưỡng bách tiệt trùng những tội phạm cố tật và
những kẻ thiểu trí. Nước Đức nhập đoàn, cả trước khi Hitler nắm
quyền. Dưới thời Đức quốc xã, sinh sản con cái với “dòng máu tinh
tuyền Aryan” được khuyến khích, còn những ai bằng bất cứ cách nào
“thiếu dòng máu ấy” thì không những bị tiệt trùng mà còn bị giết chết.
Vấn nạn đạo đức cơ bản chống lại các chương trình Ưu sinh tích
cực cũng như tiêu cực là sự xâm phạm một trong những quyền cơ bản
nhất của từng cá nhân con người, đó là quyền về những tương quan
giới tính và quyền sinh sản theo sự chọn lựa của con người. Nhưng
cũng có một khó khăn quan trọng thực tiễn trong việc tìm cách tiêu trừ
những nhược điểm hay bệnh tật đến từ những di tố “chìm lặn”, bởi
nhiều người trong dân chúng có thể mang trong mình một di tố như
thế, còn vấn đề là tìm ra những ai có hai di tố như vậy. Ngăn ngừa sự
sinh sản bởi tất cả những ai mang di tố là một điều trong thực tế
không thể được, mặc dầu điều đó đứng trên phưong diện đạo đức là có
thể chấp nhận. Và những hậu quả của nó trên toàn thể dân chúng là
một điều không thể tiên đoán được.
Ưu sinh tùy thuộc vào việc phê phán mang tính kỳ thị, gọi ai là kẻ
bị coi là “hạ cấp”. Bởi thế, nó đã dễ dàng bị liên tưởng đến sự kỳ thị
chủng tộc. Tiên kiến chủng tộc được nằm sâu trong văn hóa châu Âu,
tác động cả đến những triết gia danh tiếng toàn cầu của thời Khai minh
như Hume và Kant. Những người nô lệ da đen đã một thời được đưa
từ châu Phi đến châu Mỹ bởi những tên thực dân, và những hậu quả