Kỳ và Anh quốc. Nếu tự nhiên ảnh hưởng lớn hơn giáo dục trong việc
gầy dựng con người và xã hội, thì có lẽ rất ít khả năng có nhiều nhà lý
thuyết xã hội đã tìm cách cải tiến cá nhân và xã hội bằng những
chương trình giáo huấn, tăng cường xã hội và thay đổi chính trị. Các
nhà đạo đức học và chính trị gia khuynh hướng bảo thủ có thể nói
(một cách sai lầm) rằng, bởi những khác biệt giữa cá nhân, chủng tộc
và giới tính là bẩm sinh, thì chẳng ích gì tìm cách giảm thiểu hay loại
bỏ chúng đi. Cũng vì thế, các nhà theo chủ nghĩa xã hội, chống kỳ thị
chủng tộc và tranh đấu cho nữ quyền đã tìm cách phản ứng lại, cho
rằng lập trường đúng đắn nhất là − ngoài vấn đề sinh lý của cơ thể và
một ít phương sách cho cuộc sống bình thường − bản tính của con
người cơ bản là một “tờ giấy trắng” được viết lên bởi xã hội.
Mặc dầu từng là cuộc tranh luận nóng bỏng, nay xem ra nó là một
cú phóng tay lớn cuối cùng của phong trào chống sinh vật học và phò
trợ văn hóa đang thống trị tư tưởng xã hội hàn lâm trong những năm
giữa thế kỷ XX. Quả thật, đọc các tác phẩm của Wilson một cách ôn
hòa và thận trọng, nhất là những tác phẩm sau cùng của ông, cho thấy
rằng, không những không chối bỏ ảnh hưởng của văn hóa, Wilson
nhìn thấy Sinh học và Văn hóa cả hai đều thiết yếu góp phần vào sự
phát triển cá nhân và xã hội. Điểm chính ông vẫn bảo trì là Sinh học
giới hạn tầm khác nhau của các nền văn hóa; như ông có nói: “Di tố
cầm giữ văn hóa vào một sợi dây”. Khi vết mờ của tiên kiến ý thức hệ
và của báo chí quá đơn giản hóa được tẩy lọc đi, thì khá hẳn nhiên là
đại khái sẽ không còn sự lựa chọn đối với hoặc tự nhiên hoặc văn hóa,
bởi cả hai đều thiết yếu cho sự hình thành mỗi cá nhân con người. Câu
hỏi thực nghiệm tôn trọng mỗi phương diện của phong cách hành xử
của con người là bao nhiêu phần dành cho tự nhiên và bao nhiêu phần
dành cho văn hóa (điều thường rất khó trả lời). Vấn đề giá trị là tới
chừng mực nào, nếu là có, ta phải đối xử khác biệt với tha nhân khi họ
tỏ ra khác biệt trong những khả năng bẩm sinh.