đại với những nhà chọc trời tại New York, các vùng ngoại ô ở
Glasgow, hay các vùng ổ chuột tại Rio de Janeiro (Brazil).
Cosmides và Tooby nghĩ khác, rằng đã có những thay đổi quan
trọng trong hệ di tố của con người từ khi bắt đầu nông nghiệp, không
nói đến những hình thức kinh tế kỹ nghệ và hậu-kỹ nghệ. Nhưng các
nhà Tiến hóa khác chỉ ra rằng ở đây họ đang đứng trên một vùng thực
nghiệm đầy tranh cãi. Từ khi mở rộng công việc trang trại với chăn
nuôi trồng trọt, chỉ hơn độ vài nghìn năm, nhiều con người đã phát
triển và có khả năng tiêu thụ chất đường sữa (lactose) trong sữa bò. Có
thể rằng một số khía cạnh của hệ tâm lý của chúng ta đã phát triển
tương ứng với những phát triển kinh tế/xã hội/văn hóa lớn? Câu hỏi
xem ra được bỏ ngỏ một cách đầy ý nghĩa. Những dữ liệu mới đây của
Dự án Hệ di tố của Con người (Human Genome Project) được cho
biết là chúng hỗ trợ luận cứ cho sự tiến hóa mau chóng gần đây của
các di tố được biểu hiện trong bộ não của con người.
Cosmides và Tooby đã đưa ra một trình bày và phê phán thật hoàn
bị về điều mà hai vị gọi là Mô hình Khoa học Xã hội Chuẩn (The
Standard Social Science Model), điều này tiêu biểu cho các khoa học
xã hội phần lớn ở thế kỷ XX (xem Giai đoạn II trong chương này). Hai
vị biện luận rằng, bởi cường độ của ý thức hệ kỳ thị chủng tộc và kỳ
thị giới tính được liên tưởng, sự tiếp cận này đã không nhìn đến sự
hiển nhiên của nhiều cơ chế tri thức bẩm sinh, phát triển tiến hóa trong
tâm thức con người, và đã nhầm lẫn tập trung vào văn hóa được xem
như là yếu tố sáng tạo chủ yếu của từng con người cá thể. Thay vào
đó, họ đã (giống như Wilson) đề bạt rằng, các yếu tố sinh vật, tâm lý
và xã hội hay văn hóa phải được nhìn nhận như là những thành phần
cài kết với nhau của một mạng nguyên nhân phức hợp phía sau Bản
tính con người:
Sự phức hợp súc tích của mỗi cá thể được tác tạo bởi một kiến trúc
tri thức, biểu hiện trong một hệ thống sinh lý. Hệ sinh lý này tương tác
với thế giới xã hội và phi xã hội bao quanh. Và như thế, con người −