diện ngôn ngữ này không thể tráo đổi lẫn nhau, bởi không có sự đòi
hỏi thiết yếu nào bảo rằng niềm tin hay ham muốn (được nhận diện
qua nội dung của chúng, td. điều mình tin hay ham muốn) phải được
hiện thân một cách sinh học hoàn toàn như nhau của trạng thái bộ não,
trong hai cá nhân, hay cả trong cùng một người ở hai thời điểm khác
nhau. (Nếu có những hữu sinh ngoài trái đất, họ có thể có những niềm
tin giống chúng ta, ít nữa là trong khoa học và toán học, nhưng chất
hóa sinh bộ não của họ phải là rất khác biệt).
Có một nhị nguyên về cách giải thích không thể tráo đổi lẫn nhau,
bao hàm hoặc lý do hoặc nguyên nhân – như Kant đã tìm cách diễn tả
với ngữ vựng đặc thù (idiosyncrasis; idios: đặc biệt, synkrasis: hỗn
hợp) của ông, và như đã được xuất hiện trong các cuộc tranh luận của
chúng ta về Sartre và Darwin. Một đàng, chúng ta giải thích hành
động và niềm tin của con người bằng từ ngữ lý do, dựa trên sự kết nối
khái niệm giữa tiền đề và kết luận trong lý luận lý thuyết hay thực
hành. Những lý do của tác nhân đưa ra để giải thích cho hành động
của họ cũng được sử dụng trong khoa học xã hội. Đàng khác, trong
các khoa học vật lý, chúng ta giải thích các biến cố − kể cả những biến
cố của bộ não − bằng cách nói ra nguyên nhân, kêu gọi đến những quy
luật phổ cập (hay xác suất) của tự nhiên, cùng với những điều kiện
khởi đầu riêng biệt của chúng.
Có một liên quan với khái niệm truyền thống của ý chí tự do. Lý
tính mà thôi có thể chưa đủ cho ý chí tự do, nhưng chắc chắn là cần
thiết; như vậy, nếu ý chí tự do là khả thực, thì lý tính cũng phải khả
thực. Nếu chúng ta có thể hiểu, làm sao khái niệm lý tính có chỗ đứng
trong thế giới vật lý (làm sao các tạo vật mà hoạt động của bộ não căn
cứ vào những biến cố thuộc điện và hóa cũng có thể nói được − điều
hoàn toàn đúng − rằng chúng có những lý do cho niềm tin và hành
động của chúng) thì cũng có hy vọng hiểu được, làm cách nào ý chí tự
do cũng có chỗ đứng trong một thế giới của nguyên nhân tất định (hay
xác suất).