người luôn cùng nhau trong hòa hợp yêu thương. Nhiều học giả nghĩ
có thể dịch sang tiếng Anh là “human-heartedness” hay
“humaneness”, [tiếng Đức là “Herzlichkeit des Menschen” hay
“Menschlichkeit”, tiếng Việt có thể là “lòng nhân”, “nhân đạo”, “nhân
ái”, “nhân hậu”]. Dẫu sao, đức nhân là một từ đạo đức học rộng lớn
biểu hiện đỉnh vòm tính ưu tú của con người theo Khổng Tử. Và cũng
theo Khổng Tử, đức nhân dứt khoát thuộc tầm tay thực hiện của con
người. Ông nói: “Đức nhân có phải ở xa ta chăng? Nếu ta muốn điều
nhân, thì điều nhân đến liền nơi ta vậy”/“Nhân viễn hồ tai? Ngã dục
nhân, tư nhân chí hỹ” (VII.29). Vậy, cái cốt lõi của một con người
hoàn thiện là một trái tim nhân hậu. Nhưng không may, Khổng Tử
nhận thấy đức nhân này thật quá hiếm hoi trong thế giới: “Ta chưa
thấy người nào thật tình yêu điều nhân”/“Ngã vị kiến háo nhân giả”
(IV.6). Và hậu quả, khả năng hòa hợp xã hội được thay thế bằng xung
đột.
TOA THUỐC
Toa thuốc của Khổng giáo cho các cơn bệnh của hiện hữu của con
người được đặt trên nền tảng sự “kỷ luật tự giác”. Khi được hỏi về
con người hoàn thiện, Khổng Tử nói: “Người quân tử tự sửa mình,
nhờ đó mà trăm họ được yên trị”/“Tu kỷ dĩ an nhân, tu kỷ dĩ an bá
tánh” (XIV.45). Người cai trị lý tưởng đối với Khổng Tử là người cai
trị bởi gương sống đạo đức. Nhưng tu kỷ là gì trong mạch văn này?
Câu trả lời có thể tìm thấy trong việc khảo sát giải pháp được đề xuất
đối với năm căn bệnh đã được trình bày trong phân đoạn trước.
(1) Để lướt thắng khuynh hướng hành động vì tư lợi, Khổng Tử đưa
ra đề nghị “hành động không vì mục đích gì” (“doing for nothing”).
Đặc biệt, hành động này bao hàm hành động đúng, đơn giản chỉ vì nó
đúng với đạo đức, chứ không vì một lý do nào khác. Đối với Khổng
Tử, cuộc đấu tranh đạo đức mang một chủ đích tự thân [nghe đồng
vọng với Đạo đức học của Kant, ND]; qua đó con người hoàn thành sự
hợp nhất ý chí của mình với Ý chí của Trời, với Mệnh Trời. Hành