có thể gắng sức để hiểu được những con đường của Trời, nhưng hẳn
thật là ta phải hành động một cách nhân nghĩa những gì Trời gửi đến.
Lần nữa, vun trồng bản ngã mới là điều quan trọng, chứ không phải sự
được nhìn biết của xã hội: “Người quân tử buồn vì mình không đủ tài
đức, chớ chẳng buồn vì người ta chẳng biết mình”/“Quân tử bệnh vô
năng yên, bất bệnh nhân chi bất kỷ tri dã” (XV.18).
(2) Vun trồng bản ngã như một chi thể trong gia đình, đó là toa
thuốc thứ hai Khổng Tử đưa lại để xây dựng một xã hội hòa hợp. Ông
tin rằng, là một phần tử tốt trong gia đình sẽ có ảnh hưởng rất lớn vượt
ra ngoài ranh giới của gia đình bé nhỏ của mình: “Kẻ nào hiếu với cha
mẹ, thuận với anh em, cũng có ảnh hưởng trên chính trị rồi”/“Duy
hiếu, hữu [bằng hữu] ư huynh đệ, thi ư hữu chính” (II.21). Sự chuyển
hóa xã hội bắt đầu bằng việc vun trồng bản ngã trong môi trường của
gia đình; sau đó lan rộng ra giống như những gợn sóng lan tỏa từ một
viên đá cuội ném xuống ao hồ tĩnh lặng. Những quy tắc và tương quan
hành động trong gia đình phải được lan rộng bao gồm mọi người trong
xã hội. Lòng nhân ái đối với người ngoài gia đình phải là sự mở rộng
tình yêu thương của mình đối với mọi người trong chính gia đình
mình.
Tương quan quan trọng nhất đối với Khổng Tử là tương quan giữa
con cái với cha mẹ. Khi được hỏi về lòng hiếu thảo. Khổng Tử nhắn
nhủ (II.5): “Đừng làm điều trái”/“Vô vi [trái ngược]”. Cách thức một
người con có hiếu đối với cha mẹ là noi theo con đường sống cha mẹ
đã đi: “Sau ba năm cha mình mất mà mình chẳng đổi đạo nghệ của
cha, đó được gọi là người con có hiếu”/“Tam niên vô cải ư phụ chi
đạo, khả vị hiếu hỹ” (I.11). Điều này dĩ nhiên tùy thuộc vào đức hạnh
của cha mẹ mình. Khổng Tử tin tưởng rằng, người cha trong gia đình,
hay ông vua trong nước, phải quản trị bằng gương hạnh đạo đức: “Nếu
đại phu là bậc dẫn đầu trong dân chúng mà tự mình chính đáng, thì
còn ai dám ăn ở bất hạnh?”/“Tử suất [dẫn đầu] dĩ chính, thục [ai,
người nào] cảm bất chính?” (XII.16).