những người tôn thờ sự vô tri; và đi vào bóng đêm mù tối hơn nữa, là
những người thỏa thích với học hỏi” (4.4.10). Các thư văn Áo nghĩa
thư không chê bỏ mọi việc học hỏi, nhưng đúng hơn gióng lên một
tiếng nói thận trọng về những giới hạn của tri thức thông thường. Điều
mà trích đoạn trên đây muốn nói, là có nguy hiểm khi ta quá đặt nặng
vào tri thức thông thường. Thông tin thường nhật là điều tốt cho các
công việc trong thế giới quy ước của đa dạng hình thức; nhưng nó sẽ
vô bổ cho sự hiểu biết về bản tính tối hậu của thực tại và của tự ngã.
Brihad Aranyaka Upanishad rõ ràng cho biết, cuối cùng chúng ta
phải dứt bỏ mọi ràng buộc với những cách hiểu biết thông thường.
Thư văn này nói, chúng ta “phải chấm dứt không còn là một học giả
(“pundit”) và cố gắng sống như một trẻ thơ. Và khi ta chấm dứt sống
như một trẻ thơ hay như một học giả, thì ta sẽ trở nên một hiền nhân”
(3.5.1). Điều ấy có nghĩa, sau khi lăn lóc nghiền ngẫm với văn tự và
trở thành một học giả, ta phải dứt bỏ mọi lệ thuộc vào văn tự thư văn,
và tìm cách trở về tâm trạng đơn thuần và hồn nhiên của một trẻ thơ.
Nhưng điều này vẫn chưa cho thấy một chỉ dẫn rõ rệt, bằng cách nào
ta có thể thể hiện tri thức và sự tự do tối hậu. Chỉ với những ngôn từ
rất chung, Brihad Aranyaka Upanishad khuyên dặn hãy dứt bỏ những
con đường thông thường của hiện hữu và thường xuyên thiền nghiệm
về atman. Sự mập mờ này là nét đặc thù không những của thư văn
này mà còn của cả những Áo nghĩa thư khác nữa. Và như thế, điều còn
lại là công việc của các nhà chú giải sau này sẽ phải diễn tả chính xác
trong chi tiết, tâm trạng tối hậu là gì và làm cách nào để đạt được tình
trạng đó.
NHỮNG GIẢI THÍCH KHÁC NHAU
Một trong những khác biệt lớn nhất trong Ấn Độ giáo là sự khác
biệt giữa hai quan điểm của hai nhóm người: Quan điểm về thực tại tối
hậu như một tuyệt đối phi ngã (hay phi vị, impersonal) và quan điểm
nhấn mạnh một tương quan vị ngã (hay duy vị, personal) với thực tại
tối hậu. (Một vấn đề tương đồng là: Thế giới cuối cùng là hiện thực