hay không?). Không gì lạ, hai lập trường triệt để khác nhau này đã dẫn
đến những giải thích rất khác nhau về Brihad Aranyaka Upanishad.
Một dẫn nhập hoàn bị vào Ấn Độ giáo hậu thời bao hàm việc mô tả
cả một mảng vấn đề rộng lớn về các Thực hành tôn giáo, gồm những
lễ tiết gia tộc, những nghi lễ đền thánh, những hành hương, luyện tập
yoga, v.v..., cũng như những tín điều làm nòng cốt cho những thực
hành nói trên. Dẫu rằng một công việc như thế là không thể thực hiện
được trong khuôn khổ giới hạn của chương sách này, nhưng những tư
tưởng của hai vị lãnh đạo trong truyền thống Ấn giáo – Shankara và
Ramanuja – cũng cần được nghiệm xét để diễn bày tầm thực hành và
tin tưởng rộng lớn được hàm chứa trong đề mục Ấn Độ giáo.
Cả hai vị đều được nhìn nhận là những nhà Triết học Vedanta –
“Vedanta” theo văn tự có nghĩa là “điểm cùng tận của Veda”, nghĩa là
đỉnh cao của các tập sách minh triết mang tên Veda. Từ ngữ này thoạt
đầu được dùng để chỉ về các giáo huấn của Áo nghĩa thư, nhưng cũng
bao hàm tác phẩm Bhagavad Gita (Chí tôn ca) và Brahma Sutra (Kinh
Brahma). Mặc dầu cũng có những Trường phái Triết học Ấn Độ
không phải Vedanta, Shankara và Ramanuja tiêu biểu cho hai trong số
các trường phái ảnh hưởng nhất của tư tưởng và thực hành Ấn giáo.
Bởi cả hai vị Shankara và Ramanuja đều viết giải thích về Brahma
Sutra, một thư văn tiếp tục nghiên cứu về khái niệm brahman đã được
bàn đến trong Áo nghĩa thư, nên chúng ta sẽ sử dụng cả hai thư văn
này để khảo sát sự khác biệt cơ bản trong vấn đề chú giải.
1) Advaita Vedanta theo Shankara
Shankara (788 − 820) là một trong những triết gia Ấn Độ được biết
đến nhiều nhất tại Ấn Độ cũng như ở phương Tây. Mặc dầu hệ thống
Triết học Advaita (“Phi nhị”/“Nondualism”) của ông là nền tảng cho
những thực hành của một thiểu số người Ấn và đồng thời lại có
khuynh hướng chiếm ưu thế trong sự hiểu biết của người phương Tây
về Ấn Độ giáo, nó tiêu biểu cho một định vị triết học quan trọng trong