rắn chỉ là khái niệm được đặt lên trên sợi dây, “con rắn” ở đây chỉ là
một thực tại ngoại tại. Cũng vậy − như một minh họa − thế giới và
brahman. Thế giới của đa phức thường được đặt lên trên brahman
phi-nhị (nondual), với hậu quả là chúng ta sống trong một thế giới ảo
tưởng. Nghiệm sinh về thế giới, trái lại, được khải thị là nhầm lẫn
trong tri thức tối hậu của brahman. Học thuyết này cho phép các triết
gia phân rẽ thế giới không xác thực ra khỏi thế giới đích thực, giống
như những phản chiếu của mặt trăng trong các chậu nước được phân
rẽ ra khỏi mặt trăng đích thực.
Luận cứ này cũng được áp dụng cho hai thực tại khác biệt quan
trọng khác: Thượng đế duy ngã và linh hồn cá thể. Shankara định
nghĩa Thượng đế duy ngã như brahman với thuộc tính. Nhưng bởi
mọi thuộc tính đều là sản phẩm của những nhân tố giới hạn của vô tri,
vậy Thượng đế cuối cùng cũng được khẳng định là một ảo tưởng.
Nhưng tôn thờ Thượng đế duy ngã là điều rất có ích, bởi cho dầu
Thượng đế không phải là thực tại cao nhất, nhưng Ngài là thực tại cao
nhất được khái niệm cho các tạo vật còn vướng mắc vào ảo tưởng
hoàn vũ của maya. Điều ấy có nghĩa, Thượng đế duy ngã là một thành
phần cần thiết cho kinh nghiệm tâm linh, bởi Ngài cung ứng một bước
chuyển tiếp giữa thế giới và brahman cho những ai còn bị ràng buộc
vào thế giới. Nhưng cuối cùng, ta phải loại bỏ cái ý nghĩa này của sự
tách rời và hồi phục mọi thần linh về lại tự ngã của mình.
Một khái niệm liên quan, theo Shankara, là linh hồn cá thể (jiva).
Bây giờ có thể thấy rõ hơn rằng, mọi khác biệt đối với Shankara được
xem như hiệu quả của nhận thức hão huyền, nên ta sẽ không bỡ ngỡ
khi thấy Shankara cuối cùng cũng loại bỏ cả linh hồn cá thể được xem
là huyễn hoặc. Mặc dầu jiva, hay linh hồn cá thể, bao hàm một tầng
thể hiện cao hơn đặc tính của tư ngã (ego) liên kết với thân xác, nhưng
trong phân tích cuối cùng thì nó [jiva] cũng là phi-hiện thực. Cái tự
ngã đích thực, theo Shankara, là atman, được định nghĩa như là ý thức
thuần túy. Giống như thế giới và Thượng đế, linh hồn cá thể chỉ là một