Anh bạn nhắc: “Nhưng họ dùng ngôn ngữ Ấn - Âu: Tocharian, còn anh
thì lại là người Hồi.”
“Thì tổ tiên chúng tôi khi xưa nói tiếng Ấn - Âu, về sau mới dùng tiếng
Đột Quyết (Hồi). Hiện nay tôi có thể nói tiếng Hoa, có thể đến đời cháu tôi
chỉ còn nói được tiếng Hoa thôi. Thời gian có thể thay đổi mọi thứ, nhưng
tôi vẫn là người Hồi.”
“Thôi đi, anh và người trên bích họa không cùng một dân tộc, những
người đó sao có thể là tổ tiên các anh được chứ?”
“Sao lại không? Người Hán các anh có thể cùng người ngoài kết hôn,
chúng tôi cũng có thể”- thái độ của Salim rất kiên quyết. Quay người lại,
anh hỏi tôi: “Cô biết người đẹp Lou-lan chứ?”
Anh kể vào năm 1980, tại Lou-lan ở Tân Cương phát hiện tử thi một
người nữ. Lou-lan là một ốc đảo xưa thuộc phía Nam sa mạc Taklamakan,
nay đã bị sa mạc hóa. Cô là một mỹ nhân, mắt to, tóc nâu, đầu đội mũ lông
chim, mặc áo khoác ngắn, chân mang ủng, dường như chuẩn bị đi săn.
“Trong báo chí đều gọi cô ta là ‘mẹ của dân tộc chúng tôi’, nhiều người
phổ nhạc về cô”- Salim nói. “Huyền Trang mô tả người Qui Tư thế nào?”
“Ngài Huyền Trang dường như không nói về nguồn gốc người Qui Tư”-
tôi nói. Salim có vẻ thất vọng. Có thể ngài Huyền Trang không xem trọng
lắm nguồn gốc của họ. Tây Vực giống như một chảo nóng, giao thoa giữa
Hy Lạp, Ba Tư, Ấn Độ và Trung Quốc. Nhiệt tình đón những khách buôn
trên sa mạc, người Qui Tư cũng đồng thời tiếp nhận những nền văn hóa, tín
ngưỡng, tư tưởng khác nhau.
Ngài Huyền Trang từng gặp những cư dân năm xưa tại sa mạc
Taklamakan có thể chính là những bộ xương được trưng bày tại Viện bảo
tàng ở Turpan và Urumqi, kể cả người đẹp Lou-lan. Họ khác biệt tộc Hán ở
điểm: thân cao lớn, tóc dài màu vàng hoặc luốc, về phục trang có khác biệt,
có khi mặc váy giống người Scotland. Tôi từng nghĩ chỉ có tộc Hung Nô và
tộc Hồi là dân du mục, cùng tộc Hán sinh sống trên vùng này, không ngờ
rằng nơi đây lại kết hợp và bao dung nhiều nền văn hóa khác như vậy.