xe lừa và vài chiếc xe đạp chạy ngang qua. Nơi đây thật yên tĩnh, thời vàng
son của nó đã trôi qua. Tôi vốn tưởng sẽ tìm thấy nơi đây chất vị xưa,
nhưng đổi lại chỉ là sự mai một, những gì của lịch sử cũng không còn tồn
tại. Chúng tôi chậm rãi đi trong bóng đêm. Khi ngang qua một khu nhà,
chợt nghe tiếng nhạc.
“Đám cưới đấy!” - Salim chợt cười nói - “Chúng ta cũng vào chúc mừng
họ. Cô không phải rất muốn xem thiên phú âm nhạc tại Kucha sao?”
“Như vậy được không?”
“Không việc gì, chúng tôi vốn là một dân tộc hiếu khách mà. Có tôi
đây.”
Đây là khu nhà cổ rộng lớn, bên trong có nhiều cây cổ thụ, còn thêm
những nhành nho trĩu quả. Bên dưới là thảm cỏ xanh, khắp nơi có trải
thảm, trên bàn tiệc lớn bày đầy những thịt cừu, dưa ha-mi, bánh kẹo, trái
cây khô. Mọi người ngồi vây quanh, chính giữa là cô dâu chú rể, các phụ
nữ bận rộn với những đứa con dắt theo, cánh đàn ông thì vừa uống rượu
vừa trò chuyện vui vẻ. Tôi là người tộc Hán duy nhất tại đây, Salim chẳng
hề giới thiệu tôi với mọi người, khiến họ ngạc nhiên nhìn tôi, sau đó thì
nhiệt tình bày trước mặt tôi đầy những thức ăn, làm dấu tay ra hiệu mời
dùng.
Đột nhiên âm nhạc trỗi lên, mọi người đều đứng dậy nhảy múa, họ mời
tôi cùng nhảy. Các phụ nữ mặc váy hồng dài có thêu sợi vàng, đen, nhảy
theo nhịp trống, càng nhảy càng nhanh, váy bay theo điệu múa, các bím tóc
bên dưới mũ cũng nhảy theo. Nhìn thấy họ mang giày cao gót, tôi vô cùng
lo lắng sợ họ bị trật chân. Thế nhưng họ càng nhảy càng điêu luyện. Chắc
chắn các họa sĩ tại Thiên Phật động Kezier đã từng thấy qua các tư thế múa
này, nếu không sao họ vẽ được những bức họa sống động như vậy. Tôi
tưởng chừng như các vũ sư từ trong các bích họa đều xuống đây tham gia
hôn lễ.
Cuối cùng thì hôn lễ kết thúc viên mãn. Về lại lữ quán, tôi lãnh hội rất
nhiều từ những gì mắt thấy tai nghe hôm nay. Qui Tư dưới ngòi bút của