quá quen thuộc, mà là một Huyền Trang sống động, đang từng bước tây
hành. Bóng ngài phía trước càng lúc càng rõ dần, tôi cảm thấy mình đang
tiến gần ngài hơn.
Chúng tôi đi về bờ bắc hồ Esek. Núi uốn khúc, nước trong xanh khiến
lòng người thoải mái. Tôi để ý bên đường có rất nhiều ngôi mộ Hồi giáo,
phần nhiều xây gạch, phía trước là tấm bia cao, trong có hình trắng đen của
người chết. Họ an tường, tuy không được chết trên quê hương nhưng trong
khung cảnh như thiên đường này có thể xem là nơi trở về của họ. Chỉ có
điều tôi không hiểu vì sao các ngôi mộ Hồi giáo đều gần đường, trong khi
khu đất phía sau còn nhiều.
Guljan giải thích: “Họ đều là dân du mục, cả đời chỉ một mình chăn gia
súc, vô cùng cô độc. Làm như vậy sẽ khiến cho họ hy vọng ở gần thế giới
loài người, xe cộ, ngựa, đoàn du lịch bù đắp sự cô tịch khi họ còn sống.”
Cuộc sống của dân du mục gần thiên nhiên, cái gì khiến họ không cuồng
nhiệt?
“Người dân Kirgizstan chúng tôi không tin tôn giáo lắm” - Chị nói:
“Chúng tôi sùng bái tự nhiên bao la - mặt trời, mặt trăng, mưa và đất. Hơn
nữa, dân du mục không thể thứ sáu hàng tuần đi lễ tại đền thờ, chị thấy
đúng không?”
Thế còn những người Kirgizstan gia nhập tổ chức thánh chiến IMU thì
sao? Chị cho tôi biết: “Bọn họ được mướn để đi đánh dẹp người khác đạo,
mỗi ngày được lãnh 10 - 15 đô la. Đối với chúng tôi đây là mức thu nhập
cao. 80% thanh niên không có việc làm, để kiếm tiền, việc gì họ cũng chấp
nhận.” Nghe nói, sự nghèo khổ đã khiến hơn bốn ngàn phụ nữ Kirgizstan đi
ra nước ngoài làm kỹ nữ, một số đến Trung Quốc. Thu nhập của họ còn
nhiều hơn cả ngành du lịch, kế đến là thuốc phiện.
Đây là tình hình chung của toàn Trung Á sau khi Liên Xô tan rã. Sự yên
ắng của thủ đô Bishkek lôi cuốn tôi, nhưng nó không phải là hạnh phúc thật
sự, mà ẩn chứa một sự bất tường. Dù sao tôi cũng thích nó. Chạng vạng tối,
sau khi từ Kalakaua trở về, tôi đến công viên Pubovy thuộc trung tâm thành