học đạo. Tôi quyết định đi thẳng đến nơi. Chỉ một ngày trên chuyến tàu
nhanh, tôi đã đến Madras - thành phố lớn nhất phía Nam Ấn, sau đó ngồi
xe đến Kancipuram. Cảnh vật dọc đường hơn ngàn năm sau đã thay đổi
nhiều so với ghi chép của ngài Huyền Trang: những cánh đồng phì nhiêu,
những ngôi nhà trắng pha hồng, xung quanh đầy sắc hoa. Bất giác tôi đã
đến nơi. Khắp nơi là cửa hàng và cửa hiệu bán vải đủ màu sắc, còn gọi là
vải Trung Quốc - tiếng Phạn duy nhất tôi ghi nhớ. Lụa tại Kancipuram nổi
tiếng, màu sắc khiến người kinh ngạc, bạn cần màu gì đều có. Chả trách
phụ nữ Ấn tự hào về lụa Kancipuram. Tôi nghĩ không ra, nếu như tôi quấn
tấm lụa dài bảy mét, chắc chắn không tao nhã như phụ nữ Ấn, nếu không
tôi cũng đã mua một tấm “vải Trung Quốc” mặc thử.
Đến nơi đây, ngài Huyền Trang nghĩ như đã về nhà. Người dân nơi đây
can đảm, chính trực, thành thực và hiếu học. Tự Viện nơi đây như rừng,
tăng chúng hơn vạn. Kancipuram là nơi sản xuất quan trọng tại
Dharmapala, quê hương tinh thần của ngài Huyền Trang, đây cũng là nơi
học hỏi của pháp sư Giới Hiền. Những luận điểm trong Du Già Sư Địa
Luận mà ngài Giới Hiền hướng dẫn ngài đều bắt nguồn từ đây. Sau khi về
nước, ngài đã tổng hợp các luận điểm và viết thành bộ “Duy Thức luận”,
khai sáng Pháp Tướng tông, còn gọi là Duy Thức tông.
Tuy ngài Huyền Trang không nhắc đến, nhưng người Trung Quốc nào
cũng biết, vị đại sư trứ danh tại Kancipuram là ngài Đạt Ma. Công nguyên
527 - trước khi ngài Huyền Trang tây hành 100 năm - ngài Đạt Ma đã đem
Thiền tông truyền vào Trung Quốc, trở thành Sơ Tổ Thiền tông Trung Hoa.
Nhưng lúc bấy giờ do Trung Quốc chú trọng lý giải, xem tư tưởng “Kiến
tánh thành Phật, ngoài ngôn tự” của ngài là không phù hợp, nhất là ngài đã
nói thẳng với vua Lương Võ Đế rằng xây chùa, ấn tống kinh sách, độ tăng
chúng không có công đức. Vì thế, ngài đến chùa Thiếu Lâm - Hà Nam nhập
định chín năm trong động.
Cuối cùng ngài đã gặp được người đệ tử chân truyền, tổ thứ hai thiền
tông Huệ Khả, còn tên là Thần Quang. Thần Quang quỳ suốt đêm ngoài
động, sau đó chặt tay để cầu pháp. Ngài Đạt Ma đem y bát và cà sa mang từ