quý tộc đất Trường An, người bản xứ thường dùng ly bạc có vẽ hình của
Hy Lạp để uống rượu, văn hóa đa dạng đã tạo xúc cảm cho nhiều thi nhân,
nhưng tất cả đã bị mai một, cũng như bao thành thị phía tây Trung Quốc
đều bị chôn vùi dưới lớp cát vàng.
Đến sáng, tôi xuống tại trạm Liễu Viên, tuy gọi là vườn liễu nhưng chẳng
có cây liễu nào. Nơi đây là sa mạc, khắp nơi không một bóng cây, tôi
không hiểu sao lại lập ga tại đây? Tên trạm từ đâu mà có? Phải chăng là
một ước vọng, hy vọng mang lại kỳ tích như trong câu ngạn ngữ Trung
Quốc “Vô tâm cắm liễu, liễu đâm chồi.”
Chí ít thì người tài xế taxi cũng vui mừng, vì anh ta đã đợi cả đêm mà
không có người khách nào. Tôi nói muốn đi Ngọc Môn Quan, không chờ
tôi giải thích, anh ta nói: “Không vấn đề gì, khách du lịch tới đây đều đi
đến đó.”
Xe chạy, chúng tôi vượt qua thế giới sa mạc, bốn bề mênh mông, không
một bóng người, không một tòa nhà. Thật khó nghĩ rằng nơi đây từng là
chốn phồn vinh trên con đường tơ lụa. May mà đường tốt, không đầy một
tiếng sau, tôi đã đến huyện An Tây, tức Qua Châu trước kia. Nơi đây, ngài
Huyền Trang lại lần nữa gặp nạn, ngựa của ngài lăn ra chết, hai vị tăng
đồng hành sợ hãi, một người bỏ trốn, một người bị điều về. Rất nhanh, lệnh
truy nã ngài đã đến Qua Châu. May mà vị quan tại Qua Châu là một Phật tử
thuần thành, khâm phục tinh thần dũng cảm của ngài, giấu đi pháp lệnh, hối
thúc ngài lên đường.
Làm sao ngài không muốn chứ? Nhưng vì không rành đường, thêm nữa
không tìm được ai dám chống lệnh hoàng đế để đưa ngài ra khỏi Ngọc Môn
Quan - Ngọc Môn Quan với năm đài phóng hỏa, sau lưng nó là tuyến
phòng thủ sau cùng của Đại Đường. Trải qua hơn một tháng trời suy tính,
cuối cùng thì tự Viện nơi ngài tạm trú đã tìm được một thương nhân làm
người dẫn đường cho ngài.
Chúng tôi qua khỏi huyện An Tây - đây là khu vực yên tĩnh, tuy nhỏ mà
gọn, rất ít nhà nào quá ba tầng, đường rộng mà vắng, hiếm thấy xe cộ, trên
đường chỉ xuất hiện vài người. Hầu như không có dấu hiệu gì khiến tôi