dân”. Bào Thúc Nha cũng khuyên Tề Hoàn Công thu nhận ý kiến của Quản
Trọng. Ngoài miệng Tề Hoàn Công bằng lòng, trên thực tế vẫn kiên trì theo
ý kiến của mình, liên tục cất quân đánh Tống, đánh Lỗ, kết quả là đều bị
bại trận. Đối mặt với cục diện này, Bào Thúc Nha lo lắng thay cho Quản
Trọng, nói:
- Trước đây Hoàn Công bằng lòng để cho ông sáng lập nghiệp bá, ngày
nay làm cho đất nước loạn lạc như thế này, ông dự định sẽ làm như thế
nào?
Như mọi việc đã sắp đặt sẵn sàng, Quản Trọng không hề can gián mạnh
mẽ,
Quản Trọng nói với Bào Thúc Nha:
- Hoàn Công là một con người cẩn thận, sáng suốt, lại có thể dạy dỗ
được, chớ ngại chờ đợi một đoạn thời gian nữa để cho ông ta sẽ tự giác ngộ
được!
Quản Trọng đã lợi dụng chức quyền của tướng quốc, tập trung sức lực
theo đuổi công việc cải cách và xây dựng ở trong nước. Sau năm năm, nước
Tề đại thịnh, nước giàu binh mạnh. Trải qua sự kiểm nghiệm về thất bại và
thành công, cuối cùng Tề Hoàn Công đã nhận thức được mưu lược siêu
quần của Quản Trọng, do đó đã lời theo kế thuận. Qua bảy năm cố gắng,
nước Tề đã “Cửu hợp chư hầu, nhất khuông thiên hạ”, bắt đầu sáng tạo nên
nghiệp bá Xuân Thu (Xem “Quản Tử” tập bảy).
Từ năm 686 đến năm 645 trước Công nguyên, Quản Trọng với chức vụ
tướng quốc đã chấp chính nước Tề hơn bốn mươi năm, trong điều kiện lịch
sử phi thường sáng tạo ra nghiệp tích phi phàm.
Lúc đó đặc điểm chủ yếu của điều kiện lịch sử xã hội là: Sự phát minh
của đồ sắt đã được ứng dụng rộng rãi vào sản xuất, đã thúc đẩy được sự
phát triển của sức sản xuất, dẫn tới sự thay đổi kịch liệt về chế độ xã hội.
Khu vực Trung nguyên bắt đầu từ chế độ nô lệ quá độ sang chế độ phong
kiến. Địa vị “Cộng chủ” của vương thất nhà Chu đã suy yếu, cuộc chiến
tranh giành nghiệp bá giữa các nước chư hầu xảy ra liên miên. Hơn một