lắng của ngư ời nhân, chỗ nhọc nhằn của kẻ sĩ, rốt lại có gì! Bá- Di từ ngôi,
lấy đó làm danh; Trọng- Ni nói ra, gọi đó là rộng. Những cái mà họ cho
rằng nhiều đó, thì có khác nào ng ơi trư ớc khi thấy biển."
Đó là thiên "tương đối luận" có lẽ hùng hồn nhất từ xưa đến nay ở Đông
Phương nầy!
DƯỠNG SINH CHỦ
A. Ngô sinh dã hữu nhai, nhi tri dã vô nhai; dĩ hữu nhai tùy vô nhai, đãi dĩ!
Dĩ nhi vi tri giả, đãi nhi dĩ hĩ. Vi thiện vô cận danh, vi ác vô cận hình.
Duyên đốc[ii] dĩ vi kinh, khả dĩ bão thân, khả dĩ toàn sinh, khả dĩ dưỡng
thân, khả dĩ tận niên.
DỊCH NGHĨA:
A. Sinh lực của ta thì có hạn, mà sự muốn biết của ta thì không bờ bến.
đem cái có hạn (như sinh lực của ta) để mà chạy theo cái không bờ bến
(như lòng ham muốn của ta) là nguy vậy!
Đã biết thế, lại không dừng, càng nguy hơn nữa. Làm việc thiện mà không
bị danh ràng buộc; theo con đường giữa mà đi, thì có thể giữ được thân
mình, có thể toàn được sinh mạng, có thể nuôi dưỡng mẹ cha và có thể
hưởng được hết tuổi trời.
***
B. Bào Đinh[iii] vi Văn Huệ Quân[iv] giải ngưu[v] thủ chi sở xúc, kiên chi
sở ỷ, túc chi sở lý, tất chi sở kỳ, hoạch nhiên hướng nhiên tấu đao hao
nhiên, mạc bất trúng âm, hợp ư Tang Lâm chi vũ, nãi trúng Kinh thủ chi
hội.
Văn Huệ Quân viết: Hi, thiện tai! Kỹ khái chí thử hồ!
Bào Đinh thích đao đối viết: "Thần chi sở háo giả, Đạo dã. Tiến hồ kỹ hĩ.
Thủy, thần chi giải ngưu chi thời, sở kiến vô phi ngưu giả, tam niên chi
hậu, vị thường kiến toàn ngưu dã. Phương kim chi thời, thần dĩ thần ngộ
nhi bất, dĩ mục thị, quan tri chỉ, nhi thần dục hành, ỷ hồ thiên lý, phê đại
khước, đạo đại khoản, nhân kỳ cố nhiên, kỹ kinh khẳng khải chi vị thường,
nhi huống đại qua hồ. Lương bào tuế cánh đao, cát dã tộc bào, nguyệt cánh
đao, chiết dã. Kim thần chi đao thập cửu niên hĩ, sở giải sổ thiên ngưu hĩ,
nhi đao nhẫn nhược tân phát ư hình. Bỉ tiết giả hữu gian[vi], nhi đao nhẫn