thân thể mảnh mai của Oman. Vừa bước qua cầu, vừa nhìn xuống khe, nàng
rùng mình tưởng chừng như sẽ tan xác dưới vực. Bên kia cầu là thảo am
dựng nép bên bờ đá, mái hiên phủ dây leo, nước nhỏ thánh thót, trông rất
thâm u tịch mịch.
Cửa sổ phía nam thảo am để hở. Oman đưa mắt nhìn qua, rõ là chỗ ở đơn
sơ đạm bạc của người tu hành. Một chiếc lò ọp ẹp, trong là mấy thanh củi
còn đang cháy dở. Có hai tách trà, nhưng chẳng thấy thìa, muỗng gì cả.
“Chàng sống đạm bạc thay” – nàng than thở khi quan sát khắp phòng –
“Đức Phật hẳn hài lòng khi thấy một người tu hành thanh tịnh như thế này.”
Thấy nhà sư đi vắng, Oman rất đỗi thất vọng, “Chàng đi đâu nhỉ?” – nàng
hỏi, nhưng chung quanh có ai đâu mà trả lời. Chung quanh nàng chỉ có
những cây thông trơ trọi, nàng cũng chẳng biết làm gì ngoài việc chờ đợi, cô
đơn, tiều tụy giữa những cây thông già cỗi.
Một lát sau, nàng thử đẩy cửa. Cửa mở, bước vào bên trong, thấy trên bàn
có một cuốn sách. Đọc nhan đề thấy là cuốn “Chiếc giường chờ đợi” nói về
nguồn gốc tình yêu của nam giới.
Nàng nhủ thầm: “Xem ra, chàng vẫn chưa từ bỏ được tình yêu.”
Nàng định đọc cuốn sách trong khi đợi chủ nhân về, nhưng trời đã tối
không còn nhìn thấy chữ. Nàng không tìm thấy đèn để thắp nên phải chờ đợi
trong bóng tối, càng lúc nàng càng thấy đơn độc. Tình yêu chân chính quả
thật đã giúp người ta chịu đựng được tất cả.
Đến nửa đêm Gengobei mới trở về, soi đường nhờ một cây đuốc ánh lửa
yếu ớt. Chàng đến gần thảo am – nơi Oman đang sốt ruột chờ, nàng thấy
dường như có hai người trẻ tuổi từ bụi cây héo úa hiện ra tiến lại phía
Gengobei. Hai cậu đều đẹp như nhau, người thì như kim chi, kẻ thì như
ngọc diệp. Có vẻ hai thiếu niên ghen nhau, kẻ trừng người háy. Cả hai hăm
hở tiến lại gần Gengobei, nhưng chàng chỉ có một mình biết chọn ai.
Thấy vẻ mặt đớn đau, giằng xé của Gengobei, Oman cảm thấy tội cho
chàng quá. Nhưng đồng thời, cảnh ấy cũng làm cho nàng ngả lòng.