Về con dâu thì cha nàng mất về bịnh kiết lỵ vào một mùa hè. Mùa đông
năm sau mẹ nàng mất về một bịnh kỳ lạ không ai biết. Gia sản chia cho bốn
người con trai và ngôi nhà cũ chia làm tư cho bốn gia đình. Người thiếu phụ
trở nên xa lạ, không muốn trở về mái nhà xưa. Nàng đành chôn vùi cuộc
sống riêng trong gia đình nhà chồng với một lòng tận tụy vô bờ, yêu mến
cha mẹ chồng đã tỏ ra tử tế với nàng.
Nàng không biết phải tạ ơn trời Phật như thế nào cho xứng đáng khi
đấng vô hình đã ban cho nàng một bà mẹ chồng quá phúc hậu. Khi cùng
cha mẹ chồng đi chùa lễ Phật, nàng cám ơn vị thần đã giúp nàng đẹp duyên
cùng chồng nàng.
Nàng biết có những bà mẹ chồng khắc nghiệt, ganh ghét con dâu và làm
cho cuộc sống của con dâu không thể chịu được. Nhưng bà mẹ chồng của
nàng là bà mẹ xứng đáng. Nàng dâu và mẹ chồng hết sức hòa thuận với
nhau. Cô dâu thì trầm lặng còn bà cụ thì hiền lành và sống ẩn dật. Từ lâu bà
cụ ăn chay trường và luôn không động đến sanh vật. Khi một con bướm bay
vô nhà bà cụ không cho đám gia nhân giết. Bà bảo người tớ bắt con bướm
thả ra ngoài.
Thật ra thì cha mẹ chồng rất đáng được nàng dâu yêu mến và phục vụ.
Ông cụ xem nàng như con ruột. Mỗi sáng, ông đến cửa hiệu trông các
người đứng bán và kiểm tra kho hàng. Khi trở về, áo quần ông còn thoang
thoảng mùi thơm của trà, cô dâu đem đến cho ông một bình trà và một
chiếc quạt nếu là mùa hè và một đĩa than hồng nếu là mùa đông. Nàng học
làm thuốc theo sở thích của cha chồng. Nàng lau sách trên án thư của ông
cụ, nàng sắp đặt mấy chiếc quạt cổ mà ông cụ chịu khó sưu tăm, những
chiếc quạt ấy quá cũ kỹ và mỏng manh, nàng không dám giao cho đám gia
nhân trông coi.
Không như với các ông cha chồng khác xem chuyện nàng dâu phục vụ
cho mình là chuyện tất nhiên, ông cụ luôn luôn cám ơn các công việc nàng
dâu làm cho ông. Ông cụ luôn luôn nhã nhặn lịch sự với cô dâu và những
lời khen của ông cụ làm cho nàng vui vô cùng.
Ngôi nhà không rộng như các ngôi nhà khác vì đã được chia cắt trong
thế hệ trước. Ngôi nhà có ba vườn hoa, một vườn mẫu đơn, một vườn trúc