mười lần, và phần đông là những người tị nạn.
Những anh phu xe chính cống hành nghe lâu năm đâm ra thù oán những
ông bạn đồng nghiệp bất đắc dĩ, và những người đói khát chịu rước khách
với bất cứ giá nào, khiến giá cả hạ xuống đến một mức quá thấp làm cả giới
đều bị thiệt.
Thành phố tràn ngập những người tị nạn. Họ đi xin làm những nghề
không cần khéo léo để kiếm cơm. Mỗi sáng đều có một số người nằm kềnh
ra đường chết cóng vì lạnh. Những chuyện đó quá thông thường đối với dân
chúng thị thành. Không ai buồn chú ý đến toán tị nạn mới tới.
Nhưng những người này không phải như những người tị nạn trước.
Họ không ồn ào, không sẵn sàng để gây gổ, giành giựt như những kẻ
khác. Họ là hạng người mà bất cứ nước nào cũng hãnh diện có những người
dân như thế.
Người ta thấy họ là người cùng một địa phương. Áo quần cùng một thứ
vải xanh đậm may cắt theo kiểu xưa, vạt và tay dài.
Đàn ông lẫn đàn bà đều cao, lớn, nhưng bàn chân đàn bà nhỏ xỉu vì
phong tục bó chân từ bé.
Trong đám đông có vài cậu thiếu niên. Mấy đứa trẻ nhỏ được ngồi lủng
lẳng trên mấy chiếc thúng cha chúng gánh trên vai.
Tuyệt nhiên không có con gái hay trẻ nhỏ sơ sinh trong bọn.
Mỗi người đàn ông, cả đến các cậu thiếu niên đều có vác bao, bị trên vai.
Họ cẩn thận mang theo mền, gối. Tất cả đều sạch sẽ. Ngoài ra người ta còn
thấy một cái nồi sắt nhô lên các bao, bị. Nhưng trong các giỏ xách, không
có một chút lương thực nào.
Sự kiện thiếu thức ăn được xác nhận khi người ta nhìn kỹ vào mặt đám
người tị nạn.
Một cái liếc nhanh dưới ánh sáng lờ mờ của buổi hoàng hôn, người ta
không thấy gì khác thường. Nhưng khi nhìn kỹ, thì người ta thấy rõ đoàn
người đang đói và tuyệt vọng. Họ đã gần kề tử thần nên không trông thấy
gì. Cảnh lạ không đánh thức được tánh hiếu kỳ của họ.
Đoàn người này đã ở lì lại làng cho đến giờ phút chót, cho đến khi nạn
đói thúc đẩy họ lên đường. Cho nên họ lầm lũi tiến bước, âm thầm, xa lạ,