của các bức tranh. Giữa những bức tranh đó cũng có một vài bức của các
họa sỹ quen biết. Vói các họa sỹ đó, nàng chú ý nghe Trobo nói xem họ đã
làm những gì. Nàng đã có thể tự mình đánh giá được các bức hình họa, và
nàng hiểu khi các họa sỹ dùng từ chuyên môn để nói về làn da, hay đường
nét. Nhưng dù vậy, cứ đến trước các tranh khỏa thân là nàng vẫn chưa dám
nhìn.
Nàng bắt chuyện về hội họa, bởi vì nàng biết rằng Trobo sẽ chú ý nghe
những chuyện đó, rồi những nếp nhăn buồn bã trên trán chàng sẽ giãn ra,
biến mất.
Nhưng vì sao Trobo buồn chứ? Chắc chắn chàng không phải lo về tiền
nong rồi. Đến tháng tư năm sau thôi, là chàng đã có bao nhiêu là bức tranh
đem bán được, với số tiền đó, chàng có thể đủ sống một năm nữa để rồi vẽ
tranh. Vậy thì vì lẽ gì? Vì sao chàng phải xa người phụ nữ mà chàng yêu?
Hay là chàng chưa yêu? Những người yêu nhau họ luôn tìm đến với nhau,
dù giữa họ ngăn cách bằng biển cả. Họ có thể gởi tâm hồn đến với nhau
bằng các cánh thư tình. Vậy mà Trobo cũng ít viết thư, ngược lại, chàng
nhận thư cũng không nhiều. Từ hồi ở đây đến giờ, chàng chỉ nhận được có
hai lá thư. Vì vậy không phải là là họ yêu nhau lắm. Nhưng nếu chàng chưa
yêu ai thì sao? Vì sao Trobo lại dám cưới vợ theo tin trên báo, chẳng lẽ
chàng lại có một trái tim chai cứng như bằng sắt thép hay sao?!
Đôi lúc nàng cũng hỏi vì sao chàng buồn? mặc dù những câu hỏi đó,
giữa những “người khách lạ” không thể hỏi nhau.
Những lúc vậy, Trobo trả lời:
— Tôi buồn vì tôi thất vọng. Tôi tưởng mình là một nhà điêu khắc kiến
trúc lớn, tôi mơ tưởng xây dựng những lâu đài, thành quách vĩ đại, nhưng
thực ra thì tôi chỉ làm được những chiếc chuồng chim thôi. Cái chết của nữ
thần nghệ thuật cũng là bước kết thúc của mộng tưởng trong nghệ thuật của
tôi.
Cuối tháng bảy, một ngày trời mát, họ đi ôtô điện ra khỏi thành phố. Ở
ngoại ô, họ đi bộ sâu vào vùng trồng cây ăn quả Isar, về phía cánh đồng cỏ.