trong niềm vui trở về, mở rộng lòng mình tràn đầy hàm ân đối với các cư
dân này quen sống tĩnh tại, như thể Lene hay nàng công chúa Do Thái
chẳng có một ai chết. Mỉm cười và đứng lên, cậu tiếp tục đi, - cho đến khi
gần tới phố nơi thầy Niklaus ở, lại bước chân trên nẻo đường những năm
trước đây hằng ngày cậu đã đi làm việc, tim cậu thắt lại, càng xúc động.
Cậu đi nhanh hơn. Ngay lúc này, cậu muốn trình diện với thầy và được biết
nên thế nào. Không thể chờ đợi nữa, cậu thấy không thể lùi lại ngày hôm
sau. “Thầy có còn giận mình không? Chắc là thầy già lắm, nhưng chẳng
sao miễn thầy vẫn trụ được và còn đây. Mọi sự vẫn tốt lành nếu nhà điêu
khắc và xưởng của thầy vẫn còn”. Trong những ý nghĩ hối hả ấy, vào lúc
cuối cùng, cậu lo mình có thể đến quá muộn. Đứng trước cánh cửa quá
quen thuộc và nắm tay vặn, cậu sợ cửa đóng im ỉm. Có điềm không lành?
Trước đây, không khi nào ban ngày cửa đóng thế này. Gõ cửa, cậu chờ,
trong lòng xao xuyến.
Cũng u già trước đây đã đón cậu khi cậu đến ngôi nhà này, ra mở cửa. Bà
không xấu xí đi nhưng già hơn và quăn quạu hơn. Bà không nhận ra
cậu.Với giọng lo âu, cậu hỏi tin tức về thầy. Ngờ vực, bà già nhìn cậu đờ
đẫn.
- Thầy ư? Ở đây không có thầy nữa. Ông hãy đi đi. Người ta không để ông
vào nhà đâu.
Bà ta muốn đẩy cậu ra. Nắm tay bà, cậu thét to:
- U Margrit, vì lòng kính yêu Chúa, u hãy nói cho tôi biết chứ! Tôi là
Goldmund đây. U không nhận ra tôi sao? Tôi phải gặp thầy Niklaus!
Nhìn cậu với đôi mắt viễn thị gần tàn tạ, bà lão đáp lại, tỏ ý không mặn mà
tiếp đón, thậm chí có vẻ chống đối:
- Thầy Niklaus không còn nữa. Ông ấy qua đời rồi. Anh hãy xéo đi, tôi
không đứng đây lâu đâu.
Nhận thấy bao nhiêu ước mong của mình đã sụp đổ, trong khi bà già theo
sau và không ngớt la lối, cậu chạy thẳng qua dãy hành lang mờ tối để đến
xưởng. Cửa đóng chặt. Vẫn nghe đuổi theo ở sau lưng những lời rền rĩ và la
mắng của bà già, cậu bước lên cầu thang. Trong căn tiền sảnh quen thuộc,