công dân và sự bình đẳng về cơ hội cho mọi người. Một cách logic, chủ
quyền của nhân dân và sự bình đẳng về các quyền chính trị là thuộc về “loại
hình lí tưởng” của một “état politique” (thể chế chính trị) dân chủ. Từ cách
tiếp cận ấy, nhất là với sự phân biệt giữa lĩnh vực xã hội và lĩnh vực chính trị
(état social/état politique), Tocqueville có căn cứ để nhận diện và xác định
thuộc tính “dân chủ” cho cộng đồng nào bảo đảm được quyền tham gia công
khai, không hạn chế của mọi công dân vào các vị trí kinh tế xã hội và chính
trị. Như thế, dân trị là “khái niệm giới hạn” để phân biệt với các hình thức
cai trị khác trong lịch sử.
Tocqueville thuộc về những người không tin rằng bản thân nền dân trị có
thể giải quyết được hết mọi vấn đề. Ở đây, theo lối nói quen thuộc hiện nay,
ông thấy cả mặt sáng lẫn mặt tối, thấy thách thức, nguy cơ lẫn cơ hội. Theo
ông, nền dân trị hứa hẹn được những gì cho tương lai là tuỳ thuộc vào yếu tố
quyết định: tinh thần trách nhiệm của các công dân đối với cộng đồng, Từ
đó, ông đặt ra hàng loạt vấn đề đang còn nóng bỏng tính thời sự:
Nên mạnh dạn thực hiện nền dân trị đến đâu?
Làm sao hợp nhất sự tham gia của toàn dân với thể chế chính trị đại
diện?
Xã hội hiện đại đứng trước nguy cơ nào khi sự thờ ơ, tính phi chính trị
và xu hướng quay trở về với cuộc sống riêng tư (ông gọi là “chủ nghĩa
cá nhân”) ngày càng gia tăng trong nhân dân?
Làm sao cân đối được mối quan hệ giữa nhà nước và kinh tế, giữa cá
nhân và xã hội; hay nói cách khác, giữa tự do và bình đẳng?
Những câu hỏi đầy thách thức ấy đang là mối bận tâm hàng đầu của nhiều
nhà lí luận chính trị hiện nay trên thế giới, chẳng hạn ở John Rawls,
Norberte Bobbio và Jürgen Habermas…
Tocqueville còn là kẻ “đồng hành” với chúng ta ngày nay khi ông sớm
nhận ra điểm cốt tử của nền dân trị. Ông phơi bày tính bất định vốn là đặc
thù của lí tưởng dân chủ. Nền dân trị không thể “tự xác tín” về chính mình,