là người bạn chân chính − không muốn che giấu sự thật đối với nền dân trị
(tập II, tr.6).
Không nhận thức rõ ưu khuyết của nền dân trị thì không thể bảo vệ ưu
điểm và khắc phục khuyết điểm của nó. Thế đứng của ông rất rõ ràng: là
một trí thức quý tộc, ông chấp nhận nền dân trị như một thực tế lịch sử và
tìm cách tạo ra những gì tốt đẹp nhất từ nó. Thế đứng ấy cho phép ông tiếp
cận vấn đề từ cả hai hướng: một mặt, ông khắc phục được cách nhìn cố hữu
của các bậc cha đẻ tinh thần cho nền dân trị ở Mĩ như J. Locke và C.
Montesquieu quen xem nước Mĩ là kẻ đến sau và chỉ có thể lặp lại lịch sử
văn minh của châu Âu. Theo ông, những người di dân từ cựu lục địa thực ra
đã tìm được ở châu Mĩ những điều kiện cho phép họ là những người đầu
tiên hiện thực hoá các ý tưởng chính trị-xã hội của thời Khai sáng vốn bị các
thế hệ cha ông họ kìm hãm. Người di dân trên mảnh đất mới thực hiện
những gì “các trí thức châu Âu đã phác hoạ; họ thực hiện trên thực tế những
gì chúng ta mới mơ tưởng mà thôi” (Chế độ cũ và cách mạng, tr.149). Nền
dân trị “tự nhiên” ở Mĩ, qua đó, không còn là bản sao mà trở thành kiểu mẫu
và kinh nghiệm cho châu Âu học hỏi. Mặt khác, từ chỗ có thể so sánh, cân
nhắc “hơn thiệt, được mất” với trật tự cũ của châu Âu quý tộc, Tocqueville
sớm nhận ra những nguy cơ tiềm tàng của mô hình xã hội mới. Để khắc
phục chúng, nền dân trị, theo ông, cần học tập quá khứ, không phải để phục
hồi nó một cách vô vọng mà để tìm sự cân đối mới cho các chức năng xã hội
và chính trị. Hai cách tiếp cận ấy sẽ là tinh thần chủ đạo cho hai tập của bộ
sách.
5. Vậy phải chăng có “hai” nền dân trị hoàn toàn khác nhau được trình
bày trong hai tập của bộ sách?
Thật ra, như đã nói qua, Tocqueville dành
hai tập sách để phân biệt việc tìm hiểu tình hình cụ thể ở Mĩ với việc trầm tư
về nền dân trị như một “loại hình lí tưởng” (Idealtypus) của đối tượng
nghiên cứu. Khuôn khổ bài viết chỉ cho phép giới thiệu sơ qua nội dung chủ
yếu của hai tập sách.
Thời gian “du khảo” của Tocqueville ở Mĩ kéo dài 9 tháng (từ 11.05.1831
đến 20.02.1832). Cùng với Beaumont, ông dừng lâu ở New York trước khi