toà án, vì chỉ có toà án mới có quyền diễn giải một bản hiến pháp mà không
ai có quyền thay đổi ngôn từ. Vậy là toà án được đặt vào vị trí của quốc gia
và chế ngự toàn xã hội, nhất hạng là khi sự yếu kém cố hữu của quyền lực tư
pháp cho phép họ làm điều đó.
Tôi biết rằng khi chúng ta từ chối cho các quan toà cái quyền tuyên bố
luật pháp bất hợp hiến, thì chúng ta cũng gián tiếp trao cho tổ chức lập pháp
cái quyền thay đổi hiến pháp, vì nó chẳng còn gặp thanh chắn nào ngăn
bước nó lại nữa. Thế nhưng tốt hơn cả vẫn là trao quyền của nhân dân thay
đổi hiến pháp vào tay những con người đại diện ý nguyện nhân dân một
cách không hoàn hảo, còn hơn là trao cho những con người chỉ đại diện cho
chính họ.
Hẳn sẽ còn vô lí hơn nữa việc trao vào tay các quan toà người Anh cái
quyền cưỡng lại ý nguyện của cơ quan lập pháp, bởi vì nghị viện, là nơi làm
luật, cũng là nơi làm ra hiến pháp, và do đó, trong bất kì trường hợp nào
người ta cũng vẫn không thể tuyên bố một bộ luật nào đó là bất hợp hiến khi
bộ luật đó là do ba cơ quan quyền lực cùng tạo ra.
Chẳng lập luận nào trong hai loại lập luận nói trên lại áp dụng được ở
nước Mĩ.
Tại Hoa Kì, hiến pháp chế ngự cả các nhà lập pháp cũng như các công
dân bình thường. Hiến pháp là bộ luật đầu tiên của mọi bộ luật, và không thể
chỉ dùng một bộ luật mà sửa nó cho được. Nó chính là cái mà một khi các
toà án phục tùng hiến pháp thì cũng coi như là phục tùng tất cả các bộ luật
khác. Đây chính là bản chất thực sự của quyền lực tư pháp: có thể nói cái
quyền tự nhiên của người pháp quan là chọn lựa trong những công cụ pháp
lí những cái nào trói quyền lực tư pháp chặt nhất.
Ở Pháp, hiến pháp cũng là bộ luật hàng đầu của mọi bộ luật, và các vị
quan toà đều có quyền như nhau lấy nó làm cơ sở cho mọi quyết định của
mình. Nhưng khi thực thi quyền đó, họ không thể không dẫm chân lên một
quyền khác thiêng liêng hơn quyền của họ: quyền của xã hội để nhân danh
đó các quan toà hành động. Ở chỗ này, cái lí thông thường phải lui bước
nhường chỗ cho cái lí của quốc gia.