luật. Các vị chẳng làm nổi điều gì hết một khi bị nhân dân khinh rẻ. Vậy mà
cái sức mạnh của dư luận lại là cái thứ khó đem dùng nhất, bởi vì thật không
thể nói chính xác đâu là giới hạn. Đôi khi đứng ở mé bên này cũng nguy
hiểm như là vượt qua các đường ranh.
Các quan toà liên bang như vậy không thể chỉ là những công dân tốt,
những con người có học và lão thực, những đức tính cần thiết cho mọi pháp
quan, còn cần phải thấy ở họ những chính khách. Họ cần phải biết cách nhận
rõ tinh thần thời đại mình sống, biết vượt qua những trở ngại có thể khắc
phục được, và biết tránh dòng chảy khi con sóng đe doạ cuốn theo cùng với
họ cả chủ quyền của Liên bang lẫn sự phục tùng luật pháp.
Ông tổng thống có thể gục ngã song nhà nước không vì thế mà bị de doạ,
vì tổng thống chỉ có một nghĩa vụ hạn hẹp. Hạ viện có thể phạm sai lầm
song Liên bang không vì thế mà tiêu ma, vì bên trên Hạ viện còn có đoàn cử
tri khả dĩ làm thay đổi đầu óc tổ chức này bằng cách thay đổi các thành viên
của nó.
Thế nhưng nếu Toà án tối cao có khi nào chỉ bao gồm những con người
bất cẩn hoặc hủ hoá, thì Liên bang sẽ phải lo nạn vô chính phủ hoặc nội
chiến.
Vả chăng, ta chớ nên nhầm, nguyên nhân gốc gác của mối hiểm nguy
không phải là ở thành phần toà án, mà ở ngay bản chất của các chính quyền
liên bang. Chúng ta đã thấy rằng chẳng ở đâu lại cần thiết đến thế bằng việc
tổ chức quyền tư pháp mạnh hơn là ở những quốc gia đi theo chế độ liên
bang. Bởi vì chẳng ở đâu [như ở thể chế này] lại có những cá nhân đủ sức
đấu tranh chống lại các tổ chức xã hội, to lớn và hoàn toàn đủ sức chống đối
việc dùng sức mạnh vật chất của chính quyền như ở đây.
Thế mà, càng cần làm sao cho chính quyền mạnh tới đâu thì càng cần giao
cho nó phạm vi rộng và tính độc lập tới đó. Và một chính quyền càng có
phạm vi rộng và tính độc lập tới đâu, thì nạn lạm dụng những thứ quyền lực
đó càng tỏ ra nguy hiểm. Vậy là nguồn gốc cái xấu không phải là ở trong
thành phần chính quyền đó, mà ở ngay trong cấu trúc của cái Nhà nước cần
thiết phải có cái chính quyền như thế.