Nguyên nhân to lớn của việc hiến pháp liên bang có vị trí cao hơn nằm
ngay trong tính cách của các nhà lập pháp.
Vào thời kì hình thành, nguy cơ tan vỡ liên bang dường như nằm ngay
trong lòng nó, không sao tránh khỏi. Nguy cơ đó có thể nói là hầu như ai ai
cũng thấy. Đứng ở thái cực đó, nhân dân đã lựa chọn không phải những
người họ yêu quý hơn cả, mà chọn những người họ đánh giá cao hơn cả.
Ở một đoạn bên trên, có lúc tôi đã nói ra nhận xét rằng các nhà lập pháp
của Liên bang hầu như đều là những con người kiệt xuất về trí tuệ và càng
kiệt xuất hơn về lòng yêu nước.
Tất cả họ đều trưởng thành trong lòng cuộc khủng hoảng xã hội nơi đó
tinh thần tự do liên tục phải đem ra chống chọi với một quyền uy mạnh và
thống ngự. Xong cuộc đấu tranh, trong khi theo lẽ thường các đam mê được
kích thích của quần chúng vẫn còn đó bám chắc lấy cuộc đấu tranh chống lại
những nguy cơ từ lâu đã chẳng còn tồn tại nữa, thì ở họ lại không còn các
đam mê đó nữa. Họ đã để mắt nhìn tổ quốc mình thanh thản hơn và sâu lắng
hơn. Họ thấy rằng đất nước đã hoàn thành một cuộc cách mạng, và từ đây
những nguy cơ đe doạ đất nước chỉ có thể sinh ra từ sự lạm dụng tự do.
Những gì họ nghĩ, họ dũng cảm nói ra, vì trong đáy lòng họ yêu chân thành
và nồng nhiệt chính cái tự do ấy. Họ dám nói lên ý nghĩ phải thu hẹp tự do,
vì tin chắc rằng họ không hề muốn thủ tiêu nền tự do đó
Phần lớn các hiến pháp Bang chỉ trao cho Hạ viện nhiệm kì một năm, và
Thượng viện thì được hai năm. Đến mức là những thành viên tổ chức lập
pháp không ngừng gắn bó và gắn bó chặt chẽ với từng ý thích nhỏ nhặt nhất
của những người soạn thảo hiến pháp.
Những nhà lập pháp Liên bang nghĩ rằng đó là sự lệ thuộc cực đoan của
ngành lập pháp, nó làm biến đổi bản chất các tác động chính yếu của chế độ
đại diện, bằng cách coi nguồn gốc các quyền lực, và cả chính quyền nữa, là
ở trong nhân dân.
Họ gia tăng thời hạn nhiệm kì bầu cử để tạo điều kiện cho người nghị sĩ
sử dụng nhiều hơn ý chí tự do của mình.