hề có những sự kiện hệt như nhau, không hề có những quy tắc cùng một lúc
đem dùng vô tội vạ cho vô số đối tượng.
Các ý tưởng chung có chỗ này đáng khâm phục, ấy là chúng cho phép đầu
óc con người cùng một lúc đưa ra những phán xét nhanh đối với một số
lượng lớn đối tượng. Nhưng mặt khác, chúng cũng chỉ đem lại cho con
người những khái niệm không hoàn thiện, và bao giờ cũng thế, cho con
người được bao nhiêu trên bề rộng thì lại lấy mất đi chừng đó về tính chính
xác. Các xã hội càng già nua đi, thì lại càng hiểu biết nhiều thêm những sự
kiện mới, và tuy không chủ bụng, song ngày lại ngày chúng cũng chiếm lĩnh
được một vài chân lí riêng rẽ.
Chừng nào con người càng chiếm lĩnh được nhiều chân lí thuộc kiểu này
một cách tự nhiên, nó đi tới chỗ tạo ra được cho mình nhiều ý tưởng tổng
quát hơn. Con người không sao nhìn riêng rẽ được vô vàn sự việc riêng rẽ
mà rồi cuối cùng từ đó lại không nhận ra được mối dây chung gắn kết chúng
lại. Nhiều cá thể dẫn tới khái niệm giống; nhiều giống tất yếu dẫn tới khái
niệm loài. Một quốc gia càng có nhiều thói quen và thị hiếu đối với các ý
tưởng tổng quát khi quốc gia đó có những nguồn sáng tinh thần lâu đời hơn
và nhiều hơn.
Nhưng còn có những lí do khác thúc đẩy con người làm công việc tổng
quát hoá tư tưởng của mình hoặc tách mình ra khỏi lối tư duy đó.
So với người Anh, người Mĩ sử dụng thường xuyên hơn các ý tưởng tổng
quát và ngày càng ham thích như thế. Thoạt nhìn thì điều đó có vẻ khá lạ
lùng, nếu ta biết rằng hai dân tộc đó có cùng nguồn gốc, và họ cùng sống
nhiều thế kỉ dưới những luật lệ như nhau và hai bên không ngừng đổi trao
các ý kiến và tập tục. Sự đối lập hình như càng rõ nét khi ta tập trung xem
xét vào châu Âu và ta so sánh hai dân tộc thuộc loại sáng láng nhất cư trú
trên lục địa này.
Ta hẳn sẽ nói rằng tư duy của người Anh dứt bỏ trong tiếc nuối và đớn
đau sự chiêm nghiệm các sự kiện riêng rẽ để từ đó đi ngược về căn nguyên
và từ đó có khái quát hoá điều gì cũng chỉ là việc làm chính họ không chủ
định.