chương cỏn con cho riêng họ dùng thôi, vô tình họ tự đánh mất đi cái thiên
lương ai ai cũng có và cuối cùng đẩy họ ra khỏi cái tự nhiên.
Cứ cố công cố sức nói năng khác với cách nói năng giản dị dễ hiểu, họ đi
tới chỗ tạo ra một thứ đặc ngữ quý tộc, xa cách cả với cái ngôn ngữ được coi
là đẹp thực sự, và xa cách cả với lời ăn tiếng nói dân gian.
Đó chính là những mỏm đá ngầm tự nhiên của nền văn học trong các chế
độ quý tộc trị.
Bất kể lớp quý tộc nào hoàn toàn đứng tách ra khỏi nhân dân thì đều trở
nên bất lực. Điều đó đúng trong văn chương cũng như trong chính trị
.
Bây giờ chúng ta hãy xoay tấm hình này đi và cùng xem xét mặt sau của
nó. Ta hãy cùng nhau đi vào một nền dân trị đã thành truyền thống và luồng
ánh sáng đương thời của nó đang tác động tới những thú vui tinh thần của
con người. Các giai tầng ở đó đã trộn vào nhau và đã hoà lẫn vào nhau; tri
thức cũng như quyền bính ở đó đã được phân chia đến kiệt cùng, và có thể
nói là đã bị phát tán tứ tung.
Ta có đây một đám đông hỗn độn với các nhu cầu tinh thần đòi hỏi phải
được thoả mãn. Những anh tài từ tinh thần kiểu mới này đều không có cùng
chung trình độ giáo dục; họ cũng chẳng thông minh như nhau, họ không
giống với cha ông nữa, và thoắt một cái là họ đã đổi khác so với chính họ
rồi; vì họ không ngừng thay đổi không gian, thay đổi tình cảm và thay đổi
sản nghiệp. Tinh thần của mỗi con người đó cũng chẳng gắn bó với tinh thần
của mọi con người khác bằng những truyền thống và thói quen chung, và họ
cũng chưa từng khi nào có cả khả năng lẫn ý muốn cũng như thời gian để
thoả thuận mọi điều với nhau.
Ấy vậy mà các tác giả lại ra đời trong lòng cái đám đông không gắn kết
và nhộn nhạo đó, và chính cái đám đông này lại là kẻ ban phát lợi lộc và
vinh quang cho các tác giả kia.
Chẳng khó gì mà không thấy rằng, trong tình hình như vậy, hẳn là ta
chẳng trông mong gì trong nền văn học của một quốc gia như thế lại bắt gặp
được một đôi điều quy ước ngặt nghèo được thừa nhận bởi các độc giả và