kia, khơi cạn các đầm lầy, uốn nắn các dòng sông, kéo đến ở đầy các miền
hoang vu và chế ngự thiên nhiên. Cái hình ảnh tuyệt vời về bản thân đó
không chỉ thỉnh thoảng lại nhóm lên trong trí tưởng tượng người Mĩ; ta có
thể nói là nó dõi theo từng con người Mĩ kia trong từng hành động nhỏ nhặt
cũng như trong những công trình lớn lao, và nó luôn luôn treo lơ lửng trước
trí tuệ người Mĩ.
Ta chẳng thể nào nghĩ ra được cái gì nhỏ mọn hơn, khô khan hơn, chất
chứa những lợi ích khốn khổ hơn, cái gì phản thi ca hơn, nói cho gọn, cái gì
như là cuộc đời một con người ở Hoa Kì. Nhưng trong những ý tưởng dẫn
dắt cái con người Mĩ đó, bao giờ ta cũng bắt gặp một ý tưởng đầy chất thơ,
và cái ý tưởng đó hệt như một sợi dây thần kinh ẩn náu kín đáo đem lại sức
sống cho toàn bộ con người.
Trong những thời kì quý tộc trị, mỗi quốc gia, cũng hệt như mỗi cá nhân
con người, đều có xu hướng đứng im bất động và tách xa khỏi mọi quốc gia
khác.
Trong những thời kì dân chủ, con người vận động đến cùng cực, và những
đam mê mạnh mẽ lại khiến họ không ngừng thay đổi chỗ, và các cư dân của
những vùng khác nhau hoà trộn vào nhau, họ gặp gỡ nhau, lắng nghe nhau
và vay mượn nhau. Đó không chỉ là những thành viên của cùng một dân tộc
đang trở nên những kẻ giống nhau. Ngay cả các dân tộc cũng hấp thụ nhau
và trước con mắt nhà quan sát, tất cả các dân tộc đó đều chỉ còn lại là một
nền dân trị mênh mông nơi mỗi công dân là cả một quốc gia. Lần đầu tiên
điều đó phơi bày ra ánh sáng gương mặt của cả một giống người.
Mọi thứ gì gắn bó với sự tồn tại, với những thăng trầm, với tương lai của
giống người gộp chung lại, trở thành một cái mỏ vô cùng phong phú cho thi
ca.
Những nhà thơ sống thời quý tộc trị đã tạo ra vô số bức hoạ tuyệt vời khi
đề tài của họ là những sự cố nhất định trong cuộc đời một quốc gia hoặc một
con người. Nhưng không có một nhà thơ nào trong bọn họ lại từng dám đặt
vào trong bức tranh của mình vận mệnh của cả giống người, trong khi những
nhà thơ thời kì dân chủ lại có khả năng làm được điều đó.