giống người. Ta không còn thấy họ gây cho nhau những nỗi đau vô ích, và
khi không có hại gì nhiều cho chính mình, thì họ cũng có thể tham gia vào
việc xoa dịu những nỗi đau của kẻ khác, khi đó họ cũng thích thú được làm
những công việc đó. Họ không phải là những kẻ dửng dưng, họ chỉ hiền
lành thôi.
Cho dù người Mĩ bị đẩy như vậy về trạng thái chủ nghĩa vị kỉ về phương
diện xã hội và triết học, họ cũng chẳng vì thế mà tỏ ra khó có nổi một tình
thương.
Không có ở nơi đâu nền công lí đối với tội phạm hình sự lại được điều
hành một cách nhẹ nhàng hơn là ở Hoa Kì. Trong khi người Anh dường như
vẫn muốn duy trì riêng cho họ những dấu vết đẫm máu của thời Trung cổ
trong luật pháp hình sự của họ, thì người Mĩ hầu như đã xoá đi mất án tử
hình khỏi các đạo luật của họ.
Tôi cho rằng Bắc Mĩ là nơi duy nhất trên trái đất này từ năm mươi năm
nay đã không tước đi mất mạng sống của duy nhất một công dân nào phạm
tội chính trị.
Điều đó đủ để chứng tỏ rằng cái nhẹ nhàng dịu dàng đặc biệt đó của
người Mĩ chủ yếu có nguyên nhân từ trạng thái xã hội của họ, đó là cung
cách họ cư xử với các nô lệ của họ.
Xét cho cùng, rất có thể là vẫn chẳng còn thuộc địa châu Âu nào ở Tân
thế giới mà điều kiện sống của người da đen lại ít đau khổ hơn là ở Hoa Kì.
Thế nhưng ở những nơi đó người nô lệ vẫn còn phải chịu đựng những cảnh
đau lòng cùng cực và luôn luôn sẵn sàng chịu những sự trừng phạt vô cùng
độc địa.
Thật dễ dàng thấy rằng thân phận của những kẻ xấu số đó ít gây thương
cảm cho chủ của họ và các ông chủ này thấy chế độ nô lệ không chỉ là điều
có lợi cho mình, họ còn thấy đó là một điều xấu xa chẳng có gì liên quan
đến họ hết. Vì thế mà, cũng cái con người đầy tình nhân đạo với đồng loại
khi những con người đồng loại này cũng là những kẻ đồng đảng, lại có thể là
kẻ vô cảm với những nỗi đau của các “đồng loại”: ấy một khi không còn