hội thì bao giờ cũng ở trong một tình trạng đặc biệt hơn là toàn thể dân tộc.
Trên đời này, chẳng có gì ngoại lệ hơn là một tiểu xã hội luôn luôn chỉ gồm
có chừng nấy dòng họ, như giới quý tộc thời Trung đại chẳng hạn, mà mục
đích của họ chỉ là tập trung lại và giữ gìn lấy riêng cho mình và theo cách
cha truyền con nối cả trí tuệ, gia sản và quyền lực.
Vậy mà, vị trí một nhóm xã hội đó càng ngoại lệ, thì những nhu cầu đặc
biệt của nó càng tăng lên, và các khái niệm danh dự cũng lại càng gia tăng
tương ứng với các nhu cầu của nó.
Và những quy định về danh dự buộc mọi người phải theo bao giờ cũng sẽ
bớt đi nhiều lắm trong cái quốc gia không còn phân chia thành những giai
tầng khác nhau nữa, so với các quốc gia khác. Nếu có khi nào thiết lập được
những quốc gia ở đó khó có điều kiện phân chia thành các giai tầng, ở đó
danh dự sẽ chỉ bó hẹp trong một vài điều giáo huấn, và các giáo huấn đó sẽ
càng xa dần khỏi các luật lệ đạo đức được nhân loại thông thường chấp
nhận.
Như vậy, các quy định về danh dự ở một quốc gia dân chủ sẽ bớt kì cục đi
và cũng bớt nhiều đi so với các quốc gia quý tộc trị.
Và những quy định đó cũng lại sẽ mù mờ hơn, mà nguyên nhân thì như
chúng ta đã thấy ở bên trên.
Những nét đặc trưng của danh dự, vốn dĩ ít đi và bớt đặc biệt đi, nên
thường khi ta khó mà nhận rõ được chúng.
Điều đó còn do những nguyên nhân khác nữa.
Tại các quốc gia quý tộc trị thời Trung đại, các thế hệ cứ kế tiếp nhau
hoài, mỗi gia đình ở đó như thể một con người không bị chết và vĩnh viễn
bất động; các tư tưởng cũng như các điều kiện đều chẳng đổi thay.
Vậy là tại các quốc gia đó con người luôn luôn có trước mắt mình vẫn
những mục tiêu ấy được họ cùng nhìn theo một quan điểm như nhau. Mắt họ
đi sâu dần dần vào những chi tiết nhỏ nhặt nhất, và dần dà cách tri giác của
họ thế nào rồi cũng phải sáng tỏ. Vì vậy con người thời phong kiến không