những có những quan điểm khá kì cục về danh dự của họ, mà mỗi quan
điểm ấy lại in hằn trong đầu óc họ dưới một hình thù rõ rệt và chân xác.
Trong một quốc gia như nước Mĩ, nơi mọi công dân đều chuyển động, nơi
xã hội hàng ngày tự đổi thay, cũng làm thay đổi theo cả các quan niệm lẫn
các nhu cầu, thì tình thế lại không sao như vậy cho được. Ở một đất nước
như thế, con người chỉ thoáng nhìn quy tắc danh dự thôi, nó chẳng hơi đâu
mà ngắm nghía kĩ càng quy tắc đó.
Cho dù xã hội có bất động đi nữa, thì cũng khó mà cố định được nghĩa
của từ “danh dự”.
Vào thời Trung đại, mỗi tầng lớp có “danh dự” riêng, cũng một ý đó
không khi nào được chấp nhận bởi rất nhiều con người, chính điều đó tạo
cho “danh dự” của họ có một hình thù cố định và chính xác. Chưa kể là khi
tất cả bọn họ đều cùng chấp nhận một thứ “danh dự”, thì do chỗ tất cả đều
có vị trí hoàn toàn giống nhau và khá ngoại lệ, nên họ cũng tìm được cách
thoả thuận với nhau về những quy định phải theo, những quy định thành
“luật” chỉ dành cho riêng họ mà thôi.
Như vậy, danh dự trở thành một bộ mã hoàn chỉnh và chi tiết ở đó tất cả
đều được dự tính và quy định sẵn và trở thành một quy tắc cố định và luôn
luôn hiển thị trước mọi hành động của con người. Ở một quốc gia dân chủ
như nước Mĩ, nơi các đẳng trật được nhoè vào với nhau và nơi toàn thể xã
hội tạo thành một khối duy nhất, nơi tất cả các thành tố đều tương tự như
nhau mặc dù không bắt buộc phải giống nhau, con người chẳng biết cách
nào để thoả thuận được với nhau trước một cách chính xác về cái gì được
danh dự cho phép và cái gì bị danh dự cấm đoán.
Đúng là trong lòng dân tộc đó có những nhu cầu mang tính chất quốc gia
làm nảy sinh ra những quan niệm chung về vấn đề danh dự. Nhưng các quan
niệm như thế không bao giờ xuất hiện cùng một lúc, theo cùng một cách
thức và có cùng sức mạnh như nhau trong trí óc tất cả các công dân. Bộ luật
danh dự có tồn tại, nhưng nó thường bị thiếu những điều diễn giải luật.