Vũ Bằng trong Miếng Ngon Hà Nội có viết:
''Một nồi cơm Tám ăn với thịt rim, bát canh cần bốc khói xanh nghi ngút;
mấy quả cà Nghệ giòn tan... tất cả những thứ đó gợi cho ta một nỗi thèm
ước mờ mờ, nhưng làm rung động tới những nơi thầm kín nhất của
lòng''.
Và những lúc xa quê hương ông đã nhắc: ''Những lúc đó, ta không thể
không liên tưởng tới những ngày dịu ngọt bên cạnh mẹ già, vợ dại dưới
mái nhà cũ kỹ rêu phong. Ngọn đèn không sáng lóe, nhưng đủ soi một
cách thân mật vào những mái tóc thân yêu, tiếng ca hát không nhiều
nhưng đủ làm cho tim ta ấm áp; mà bữa cơm tuy là thanh đạm, nhưng đủ
để cho ta ngon miệng hơn là ăn vây, ăn yến!''[2]
Những bữa cơm thân mật, những miếng ngon gia dụng, đó là những điều
các bà nội trợ Việt Nam không bao giờ xao nhãng và cũng không thể nào
xao nhãng được nếu muốn giữ hạnh phúc gia đình, nếu muốn cảnh nhà
êm ấm, chồng vui con sướng, nhất là những ai gặp phải đức ông chồng
đãng tử bị những bóng dáng yêu kiều làm cho say sưa, bị xô đẩy theo
hương bốn mùa đi những phương trời xa lạ, mà muốn những người đàn
ông lạc phách này một buổi chiều đông kia, họ chợt nhớ lại, nhớ lại để
trở về thấy gia đình ấm cúng chân thật và để họ thấy lòng ân hận vì cảm
thấy chỉ có người vợ tấm mẳn mới là người chung thủy với mình. Lúc
đó, một cái nhìn âu yếm, một bữa cơm đơn sơ nhưng thanh khiết ngon
lành sẽ làm dậy cả một thời ân ái xưa kia như tan biến, và thời ân ái này
sẽ trở lại có phần thơm ngát hơn xưa!
Các cụ xưa muốn bảo toàn hạnh phúc gia đình, các cụ lại muốn con cái
cũng noi gương mình. E rằng những việc thúc giục khuyên răn trong gia
đình chưa đủ để con cái noi theo, các cụ muốn đề cao những công việc
nội trợ, để những bậc hiền phụ và những cô gái siêng năng phải hãnh
diện về công việc mình, dù đây chỉ là những công việc nhỏ nhặt, thổi nồi
cơm, khâu manh áo, nấu bát canh, muối hũ cà. Đề cao việc nội trợ bằng
cách để hàng xã, có khi cả hàng tổng trông vào và khen ngợi những cô
gái thổi nồi cơm khéo léo, đồ nồi xôi dẻo thơm, cắt chiếc áo, chiếc quần