đã được pháp-sư niệm chú hộ phép. Tà-ma quỷ-quái gặp hai Phương-tướng
này đều phải tránh xa, nhường đường cho đám tang đi yên ổn.
Sau hai Phương-tướng là một lá thế-kỳ bằng vải trắng chữ đen lồng
treo vào một chiếc khung. Hai bên khung lủng lẳng hai chiếc đèn lồng tròn
như hai quả bóng có ghi chức tước và địa vị của ông đồ.
Kế tiếp thế-kỳ là minh-tinh do bốn người khiêng. Minh-tinh kết bằng
lụa hồng dài tám thước. Minh-tinh giống như biển căn cước của người
khuất. Trên tấm lụa minh-tinh có ghi danh-tính địa-vị của ông đồ.
Minh-tinh treo trong một chiếc khung cao bằng tre phết giấy trắng có
vẽ màu sặc-sở. Những chữ viết trên tấm lụa minh-tinh, tang chủ phải tính
sao để số chữ có thể chia được với bốn, hoặc chia xong với bốn còn thừa lại
ba. Theo sự tín-ngưỡng của người mình khi viết những chữ đó, người ta đếm
theo bốn chữ « Quỷ Khốc linh thính ». Minh-tinh phải mang một số chữ đủ
để tránh chữ cuối cùng không đúng vào hai chữ « Quỷ » và « Khốc », nếu
chẳng may chữ cuối cùng rơi vào hai chữ này, tang quyến sẽ gặp nhiều sự
không may.
Đi theo minh-tinh là những người hàng xóm, hàng xã mang đối trướng.
Đám tang ông đồ Ngư nhiều đối trướng lắm. Dân làng xem nhìn không
chán mắt những bức trướng đủ màu, có dán những mảnh gương tròn óng
ánh, hoặc những mảnh giấy trang-kim vàng chói-lọi. Người ta khen ngợi
bức trướng này đẹp, người ta ngắm-nghía đôi câu đối kia mỹ-thuật.
Rồi người ta đọc những vế câu đối, những chữ đại tự trên các bức
trướng. Văn đã hay, chữ lại tốt, những hàng chữ ca tụng đủ mọi đức tính của
ông đồ, đề cao mọi sự nghiệp của ông.
Nhiều đối trướng lắm. Một hàng dài, đi song song hai người một mà
mãi không hết. Câu đối của con cháu, câu đối của học-trò, trướng của dân
làng, trướng của bạn-hữu.
Hết hàng câu đối, tới một hương-án, trên có bày một bộ đồ thờ thất sự
bằng đồng sáng choang. Trầm hương bốc khói, tỏa qua nắp đỉnh, và hai
ngọn nến cháy chập-chờn như muốn tắt trước gió ngoài trời.