Khoan ngồi chấm câu sách của lũ trò nhỏ trên một chiếc ghế nhựa kê ở
bên cạnh gian nhà học.
Lớp học của ông đồ Ngư cũng giống như hàng trăm ngàn lớp học chữ
Hán thời trước. Đấy là một căn nhà ba gian khá rộng, không có kê bàn ghế
như tại các trường học ngày nay. Ở gian giữa về phía trong giáp tường là
một chiếc sập có giải chiếu cạp điều. Trên chiếu có chiếc gối sơn dùng để
ông đồ tỳ tay lúc giảng học, và những buổi trưa sau những buổi học ông đồ
dùng để gối đầu ngả lưng xem sách.
Trước chiếc sập gụ là một án-thư nhỏ, có hai tràng-kỷ hai bên. Trên án-
thư có để mấy chồng sách ông đồ thường dùng để dạy học-trò. Bên mấy
chồng sách là bộ đồ nước để ông đồ tiếp khách và chiếc điếu ống, xe điếu
vắt vẻo cong cong.
Hai gian bên cạnh có hai hàng ghế ngựa, chỗ cho học-trò học và viết.
Và ở mé ngoài có hai hàng dại bằng tre để che nắng gió. Gian giữa,
ngang với hai hàng dại thẳng trước sập của ông đồ có chiếc mành mành
cuốn lên hạ xuống tùy theo chiều trời quang đãng hay mưa nắng.
Lũ học trò ngồi học hỗn-độn không có chỗ nào nhất định, chỗ này một
nhóm, chỗ kia một nhóm. Khi tập viết các cậu nằm bò ra ghế ngựa và cũng
nằm không hàng lối gì ; chỗ này mấy cậu mới học đang tô lại chữ son trên
vở tập viết, chỗ kia vài cậu học đã hơi lâu đang tô trên tờ phóng, qua lần
giấy bản của vở viết. Gần đấy, những cậu khác, học đã kha khá, đang chép
lại bài học trong mấy cuốn sách in.
Học chữ nho xưa, tập viết cũng như các em ngày nay học Việt ngữ. Bắt
đầu tập viết là viết tô.
Ông đồ hoặc trưởng tràng viết sẵn bằng bút son những trang chữ cho
các em tô lại. Khi các em tô đã hơi thạo, các em tập viết phóng.
Phóng là một tờ giấy có viết những chữ mẫu. Các trò nhỏ lồng tờ
phóng nầy vào một tờ giấy của sách viết. Nét chữ phóng hằn lên, các em tô
theo nét chữ hằn của tờ phóng. Sách vở chữ nho xưa kia đóng bằng giấy bản