Một buổi chiều mùa Thu. Trời Thu trong không gợn chút mây, gió thu
hây hẩy thổi mấy lá vàng rơi.
Dòng sông Nguyệt-Đức lặng-lờ chảy, nước xanh xanh gợn sóng đều
đều theo từng cơn gió nhẹ. Mấy cây cổ thụ làng Kim-Đôi nghiêng mình soi
bóng bên bờ sông, để hé xa xa nóc ngôi đình cổ kính cùng vài nóc nhà gạch
bên hữu ngạn dòng sông. Vài thôn nữ đứng dưới bóng cây đang cùng nhau
chuyện vãn. Ngay bờ sông, sát mặt nước, trên một hòn đá lớn, vài thôn nữ
khác đang giặt vội một ít quần áo. Cùng ngay bến sông, vài cô khác lội ra xa
xa bờ nước khỏa khoắng mấy đôi thùng để kín nước trong.
Bốn bề hầu như im lặng, không một tiếng động mạnh không một cơn
gió to. Vài lá vàng từ trên ngọn cây rớt xuống là lượn trong không trung
trước khi rơi xuống mặt nước, chiếc đảo nghiêng, chiếc đảo ngược. Dòng
sông lạnh-lùng chầm chậm chảy mang theo những chiếc lá rơi không tiếc
bến.
Vài con thuyền căng buồm chạy theo chiều gió, đè làn nước. Mấy con
đò nhỏ sang ngang đang rập-rờn trên sóng nhẹ theo đà của các cô lái đò đưa
bơi chèo làm rung làn nước bạc.
Một con đò, từ mé bên kia sông sắp cập bến Kim-Đôi. Khách đi đò
thưa lắm, chỉ có vài ba người nhà quê quần nâu áo vải với một ít thúng
mủng quang gánh. Con đò không to. Đây là loại thuyền nan thường được
dùng để chở khách qua sông trên những bến vắng.
Bến Kim-Đôi chỉ là một bến nhỏ của sông Nguyệt-Đức. Khách hàng
ngày sang ngang không bao nhiêu : chỉ những người ở một vài làng ngay bờ
đê hai bên sông mới dùng bến này, còn ở làng trên xã dưới người ta thường
dùng bến Đáp-Cầu hoặc bến Ngư-Đại là hai nơi có chợ búa đông-đúc.
Con thuyền nan từ từ cặp bến. Cô lái đò nhẹ đưa bơi chèo gạt nước lựa
cho đầu mũi thuyền giáp vào bờ sông. Nước theo đà bơi chèo bắn trắng trên
mặt sông. Cô lái đò cố giữ cho con thuyền đứng vững khỏi trôi theo nước
chảy. Cô cắm sào xuống lòng sông.