tiếng Nhật, và những từ duy nhất bằng chữ cái la tinh là tên họ tôi trên trang
nhan đề.
“Thậm chí tôi chẳng hình dung được đây là cuốn nào của tôi nữa,” tôi
vừa nói vừa đưa trả sách cho anh ta. “Thật chẳng may, tôi không biết tiếng
Nhật.”
“Cho dù biết tiếng đi nữa ông cũng chả nhận ra cuốn sách đâu,” vị
khách của tôi nói. “Nó là một cuốn ông chưa hề viết.”
Anh ta giải thích cho tôi rằng kỹ năng điêu luyện của người Nhật trong
việc chế tạo ra những món hàng nhái hoàn hảo các sản phẩm của phương
Tây nay đã lan sang cả văn chương. Một công ty ở Osaka đã mày mò nắm
được công thức cho tiểu thuyết của Silas Flannery và nay đang mày mò sản
xuất những cuốn hoàn toàn mới, mà lại là nhất hạng, để có thể xâm lấn thị
trường thế giới. Chúng được dịch lại ra tiếng Anh (hay đúng hơn là dịch ra
tiếng Anh, họ bảo bản gốc là tiếng Anh rồi sau mới được dịch ra tiếng
Nhật), và không một nhà phê bình nào phân biệt nổi chúng với tiểu thuyết
Flannery thứ thiệt.
Tin tức về sự lừa đảo quỷ quyệt này làm tôi hết sức bực tức, nhưng nó
còn đi xa hơn cơn phẫn nộ có thể hiểu được của tôi trước sự tổn thất về kinh
tế và đạo đức: tôi còn cảm thấy một nỗi lôi cuốn dè dặt đối với mấy món đồ
giả kia, với sự nối dài này của tôi vốn đơm hoa kết trái trên lãnh địa một nền
văn minh khác. Tôi hình dung một ông già người Nhật mặc kimono băng
qua một cây cầu nhỏ cong cong: ông ta là bản ngã Nhật Bản của tôi đang
tưởng tượng ra một trong các câu chuyện của tôi, và ông ta thành công trong
việc hợp nhất với tôi thông qua một hành trình tâm linh mà với tôi là hoàn
toàn xa lạ. Bởi vậy mà những cuốn Flannery giả do cái công ty lừa đảo ở
Osaka sản xuất ra dĩ nhiên sẽ là những thứ bắt chước thô thiển, nhưng đồng
thời chúng hẳn hàm chứa một minh triết tinh tế và cổ xưa mà những cuốn
Flannery thứ thiệt hoàn toàn thiếu.
Lẽ tự nhiên, khi có mặt người lạ, tôi phải che giấu sự mập mờ nước đôi
trong phản ứng của mình, nên tôi làm như thể chỉ quan tâm đến chuyện thu