Quanh huyệt mộ trống
Bầy kền kền bay vụt lên là dấu hiệu đêm sắp tàn, cha tôi có lần bảo tôi
thế. Và tôi nghe tiếng những đôi cánh nặng nề vỗ trên bầu trời tối tăm, rồi
thì tôi thấy bóng chúng che mờ những vì sao xanh lục. Bay thật nhọc nhằn,
không bứt ngay được khỏi đất, khỏi bóng những bụi cây, dường như chỉ khi
bay những chiếc lông vũ mới bắt đầu tin mình là lông vũ chứ chẳng phải
dăm ba cái lá kim. Khi bầy chim ăn thịt đã bay đi rồi, các vì sao lại hiện ra,
màu xám, và bầu trời xanh lục. Giờ là rạng đông, tôi đang ruổi ngựa dọc
những con đường vắng ngắt trực chỉ làng Oquedal.
“Này Nacho,” cha tôi từng nói, “ngay khi ta chết, hãy lấy ngựa của ta,
súng các bin của ta, thức ăn đủ ba ngày, rồi men theo lòng suối cạn phía trên
San Ireneo, cho tới khi con thấy khói bốc lên từ các sân hiên làng Oquedal.”
“Sao lại Oquedal?” tôi hỏi. “Ở Oquedal thì có ai? Con phải tìm ai?”
Giọng cha tôi càng lúc càng yếu đi chậm chạp, mặt ông càng lúc càng
tím tái. “Ta phải tiết lộ cho con một bí mật ta đã giữ kín suốt bao năm…
Chuyện dài lắm…”
Khi nói những lời đó cha tôi đang thở hơi cuối cùng trong cơn hấp hối,
và tôi, vốn biết ông xưa nay vẫn hay lạc đề, khi nói chuyện thường hay thêm
thắt những điều lan man, những giải thích này phân bua nọ, những ngoặc
đơn chêm vào rồi lại hồi tưởng về quá khứ, nên tôi cứ sợ ông sẽ chẳng bao
giờ tới được chỗ truyền đạt cho tôi điều quan trọng nhất. “Nhanh lên, Cha
ơi, cho con biết tên của người con cần tìm khi đến được Oquedal…”
“Mẹ con… Mẹ con, người mà con không hề biết, sống ở Oquedal…
Mẹ con, người chưa từng gặp con từ khi con hãy còn quấn tã…”
Lâu nay tôi vẫn biết rằng trước khi chết cha sẽ nói cho tôi hay về mẹ
tôi. Ông nợ tôi điều đó, sau khi đã buộc tôi sống suốt thời thơ ấu và niên
thiếu mà không hề biết mẹ tôi mặt mũi ra sao họ tên gì, người đàn bà đã sinh
ra tôi, hay tại sao ông đã giằng tôi khỏi vú bà khi tôi hãy còn bú sữa bầu vú