con vạc vào lúc gần sáng. Thế là cha cố gắng đứng dậy, đi lại chệch
choạng, vấp phải cái chuông, ngã vập mặt xuống sàn nhà gồ ghề và cứng
kều.
Hầu như cha vẫn chưa nhận ra chính mình trong khi cảm giác đau nhức
nhối từ một bên sườn lan tỏa choán lấy mình. Trong lúc ấy cha đã có ý thức
đầy đủ về sức nặng toàn bộ của mình: sức nặng của thân xác, sức nặng của
tội lỗi và sức nặng của tuổi già. Cha cảm thấy đối diện với má mình là cái
rắn chắc của nền nhà lát đá mà nhiều lần, vào lúc chuẩn bị các bài thuyết
giảng, nó đã giúp cha hình thành một ý tưởng sáng giá về con đường dẫn
tới địa ngục. “Hỡi Chúa Cristô”, cha thảng thốt rên rỉ “Con chắc rằng sẽ
chẳng bao giờ con đứng dậy được nữa”.
Cha không biết mình nằm sống soài trên sàn nhà được bao lậu mà không
nghĩ gì, không nhớ gì ngay cả việc cầu xin một cái chết dịu êm. Trên thực
tế, cứ như thể cha đã chết được một lúc. Nhưng khi phục hồi được trí khôn,
cha không thấy đau đớn cũng chẳng thấy sợ hãi. Cha nhìn thấy ánh sáng
nhợt nhạt bên dưới cánh cửa, và thế là cha biết chắc mình còn sống và mình
còn nhớ rành mạch lời của bài thuyết giảng.
Khi cha mở thang chắn cửa thì trời đã sáng rõ. Cha chẳng thấy đau nữa
và còn nhớ ra hình như cú ngã đã cất cho mình sức nặng của tuổi già. Toàn
bộ cái tốt đẹp, những cú ngây ngất khác thường, và những nỗi thương cảm
của làng, tất cả đã ùa vào trái tim cha khi cha nuốt ực một ngụm của thứ
không khí vốn là thứ hơi ẩm lam xanh sực mùi gà. Sau đó cha nhìn xung
quanh mình, cứ như thể để gắn bó hơn với nỗi cô đơn, và cha nhìn thấy cái
thanh lặng của buổi mai cùng với một, hai, ba xác chim chết ở hành lang.
Cha ngắm nhìn ba con chim chết trong 9 phút mà nghĩ rằng cái chết đồng
loạt của lũ chim kia cần một sự chuột tội, điều đó phù hợp với bài thuyết
giảng đã được thấy trước. Sau đó cha đi cho đến đầu hành lang bên kia,
nhặt lấy xác ba con chim chết, rồi đi trở lại phía chum nước, mở nắp chum