như không có người. Cha thấy cậu ngồi xuống chiếc ghế dài cuối cùng, đầu
để trần và hai tay để lên đầu gối. Cha biết đó là một người lạ mặt. Cha đã ở
ngôi làng này hơn hai mươi năm rồi và nhờ vậy chỉ qua cái mùi từ thân xác
họ phả ra cha nhận biết ngay các cư dân của làng. Vì thế cha biết rằng cậu
thanh niên vừa bước vào nhà thờ là một người lạ mặt. Bằng một cái nhìn
nhanh và sâu sắc cha thấy cậu ta là một người hiền lành, hơi buồn, mặc bộ
quần áo bẩn và nhàu nát. Cứ như thể mặc nó để ngủ lâu ngày rồi, cha nghĩ,
với cảm giác đó là một sự hòa quyện giữa lòng thương và nỗi chán nản.
Nhưng sau đó, do nhìn cậu ngồi trên ghế băng, mà cha cảm thấy tâm hồn
cậu đang trào dâng lòng biết ơn và thế là cha sẵn sàng đọc ngay cho cậu
nghe bài thuyết giảng vĩ đại của đời mình. Chúa Cristô hỡi, – Cha vẫn thì
thầm – Xin Người cho phép cậu ta nhớ chiếc mũ kẻo con lại phải ném nó ra
ngoài nhà thờ. Rồi cha bắt đầu thuyết giảng.
Thoạt đầu cha nói mà không biết mình nói gì. Ngay cả nghe chính mình
nói cha cũng chẳng nghe. Hầu như cha nghe thấy âm nhạc rõ ràng tách
bạch tràn chảy ra từ một suối nguồn ngủ yên trong tâm hồn cha kể từ ngày
khởi thủy của thế gian. Cha có niềm tin không chắc chắn rằng những từ
ngữ đang đua nở đúng lúc, chính xác, sáng giá, có trật tự và được sắp đặt
tốt. Cha cảm thấy một luồng hơi nóng xâm chiếm lòng mình. Nhưng cha
cũng biết rằng trí tuệ mình đã trong sáng không hề vẫn chút hư vô và biết
rằng cảm giác hân hoan vui sướng khiến cha nghẹn ngào không phải là
lòng kiêu ngạo cũng chẳng phải là sự quật khởi, cũng không phải là sự
huênh hoang khoe mẽ mà là niềm vui thuần khiết của trí tuệ mình ở nơi
Cha Của Chúng Con.
Ở trong phòng mình, bà Rêbêca cảm thấy muốn ngất xỉu, vì hiểu ra rằng
chỉ trong một khoảnh khắc thôi, cơn nóng sẽ trở lại không thể nào khác
được. Nếu không cảm thấy gắn bó sâu sắc với làng bởi một sự khó hiểu đối
với cái mới, hẳn bà đã nhét hết các đồ dùng của mình vào một chiếc hòm
đựng băng phiến và đi quanh thế giới như cố nội bà từng làm, theo như