ong vỡ tổ. Không thèm báo trước, bọn họ cứ mặc nhiên vào tiệm, dùng gối
đập túi bụi để đuổi người đàn ông mà họ bắt gặp giữa lúc gã đang tận
hưởng cái khoái lạc đê mê nhờ đồng tiền đã bỏ ra mua. Cứ để nguyên
Êrênhđira nằm trên giường, bọn họ xúm lại khiêng cả người lẫn giường ra
đường cái!
- Thật là quá quắt! Bà già gào lên – Đồ quỷ cái! – Sau đó mụ quay về
phía bọn mày râu: – Còn các ông nữa! Mới chỉ có bọn đàn bà thôi mà các
ông đã thụt dái lên tận cổ rồi, để mặc cho đám quỷ cái thả sức hành hạ con
bé chân yếu tay mềm. Ôi! Các ông nhu nhược đến thế là cùng!
Mụ cứ gào thét cho tới khi đứt hơi, cứ việc phang cây ba-toong của đức
Giáo chủ vào bất kể kẻ vô phúc nào ở trong tầm tay mụ. Cơn giận của mụ
thật tức cười giữa tiếng thét, tiếng huýt sáo chế giễu
của đám đông dân
chúng đứng xem.
Êrênhđira xấu hổ quá không biết rúc đầu vào đâu cho khởi dơ cái mặt
bởi vì cô bị cái xích chó gìm chặt vào thành giường hậu. Từ khi bắt lại
được cô, mụ già lấy chiếc xích chó xích cô vào đuôi giường. Bọn đàn bà
không hề đánh đập cô. Để cô nằm nguyên như thế trên cái giường kiểu
giường bà bá tước mà rước khắp phố phường nhộn nhịp và sau đó đặt cô
nằm tênh hênh trên bục xi măng nóng bỏng ở giữa quảng trường dưới trời
nắng đang trưa. Êrênhđira không khóc, nằm vặn người dấu mặt đi, lòng sôi
lên nỗi đau đớn và căm giận cái xích chó – biểu tượng cho số phận tủi nhục
của mình. Cô gái cứ nằm nguyên như thế cho tới khi có người vì lòng
thương hại đã lấy chiếc áo sơ-mi che mặt cho cô.
Đó là lần duy nhất tôi gặp bà cháu Êrênhđira. Nhưng tôi biết chắc chắn
rằng bà cháu cô còn ở lại cái thành phố biên giới ấy cho tới khi két bạc của
bà già chật ních mới thôi. Chỉ khi đó bà cháu cô gái này mới từ bỏ thành
phố biên giới để đi ra miền duyên hải. Chưa bao giờ người ta thấy một gia