hào hải vị thời tiền sử của Chilê mà lúc nào ông cũng mang nó trong lòng.
Bỗng ông dừng ăn, kết thúc những chiếc càng tôm hùm, và thật khẽ khàng
bảo tôi:
- Phía sau có người đang chăm chú nhìn tớ đấy.
Tôi đưa mắt nhìn qua vai ông và đúng thế thật. Phía sau lưng ông, cách
ba chiếc bàn nữa, một người đàn bà táo tợn với chiếc mũ phớt lỗi thời và
một chiếc khăn quàng màu đỏ, đang chậm rãi nhai, mắt dán vào lưng ông.
Ngay lập tức tôi nhận ra bà. Bà ta già và béo đầy, nhưng đúng là bà với
chiếc nhẫn hình con rắn đeo ở ngón trỏ.
Từ Napoles
bà đến đây cùng một chuyến tàu với vợ chồng nhà thơ
Nêruda nhưng ở trên tàu bọn họ không nhìn thấy nhau. Chúng tôi mời bà
đến uống càphê ở cùng bàn và tôi giới thiệu bà với nhà thơ bằng cách chỉ
nói về những giấc mộng của bà cốt làm cho nhà thơ phải ngạc nhiên. Ông
không tin bởi ngay từ đầu ông đã khẳng định mình không tin những lời
đoán mộng.
- Chỉ có thơ là sáng tỏ mà thôi – Ông nói.
Sau bữa cơm trưa, trong chuyến đi dạo quanh Ramblas không thể đừng
được, tôi mạo muội đi lẻ với Phrau Phrida để làm tươi mới lại những kỉ
niệm của chúng tôi mà không bị người khác quấy rầy. Bà kể với tôi rằng bà
đã bán tài sản của mình ở Áo và hiện sống hưu trí ở Cảng Porto, Bồ Đào
Nha, trong một ngôi nhà mà theo cách miêu tả của bà nó giống như một
pháo đài cổ trên đỉnh một ngọn đồi từ đó có thể nhìn bao quát toàn bộ Đại
Tây Dương thấu đến tận các nước châu Mỹ. Dù bà không nói ra, trong câu
chuyện của bà cho thấy rõ ràng rằng từ mộng đến mộng bà đã làm chủ cả
gia tài của những ông chủ ở thành Viên không nỡ từ chối điều gì. Tuy vậy,
tôi không hề động lòng vì luôn luôn nghĩ rằng các giấc mộng của bà chẳng