qua chỉ là một thủ đoạn kiếm sống mà thôi. Và tôi đã nói thẳng điều đó với
bà.
Bà ta bật cười ha hả. “Cậu vẫn cứ luôn luôn là kẻ liều mạng”, bà bảo tôi.
Rồi bà chẳng nói gì thêm, bởi vì nhóm chúng tôi đã dừng chân để đợi cho
Nêruđa kết thúc cuộc nói chuyện với các chú vẹt ở Ramblas về những con
chim bằng tiếng lóng ở Chilê. Khi trở lại câu chuyện, Phrau Phrida thay đổi
đề tài:
- À này, cậu có thể trở lại Viên được rồi đấy.
Chỉ lúc ấy tôi mới nhận ra rằng mười ba năm đã qua đi kể từ khi chúng
tôi quen nhau.
- Nhưng nếu các giấc mộng của bà đều là giả dối thì sẽ chẳng bao giờ tôi
trở lại – Tôi nói – Trừ khi có gì đó xảy ra!
Vào lúc ba giờ chiều chúng tôi chia tay với bà để cùng với Nêruđa ngủ
giấc ngủ chiều mà đối với ông là không thể nào bỏ qua được. Ông ngủ ở
nhà tôi sau một vài việc chuẩn bị trịnh trọng mà bằng một hình thức nào
đấy chúng gợi nhớ đến nghi lễ uống trà ở Nhật Bản. Cần phải mở một số
cửa sổ này và đóng một số cửa sổ kia để có một nhiệt độ chính xác, một
loại ánh sáng trên một hướng nhất định và một sự thanh tĩnh tuyệt đối.
Nêruđa ngủ ngay tức thì và thức dậy mười phút sau đấy, như những đứa trẻ
khi chúng tôi ít ngờ nhất. Ông xuất hiện ở phòng khách với một bên má vẫn
còn in hằn vết áo gối.
- Tôi nằm mộng thấy người đàn bà nằm mộng ấy – Ông nói.
Matinđê muốn ông kể lại giấc mộng.