nhai những hạt cải soong đồng cho đến khi mất hẳn cái ảo tượng con trai
trở về. Lúc đó bà thở dài: “Nó là cả đời tôi!”.
Tôi cũng trông thấy anh ta trong ký ức của bà. Lúc đó vào cuối tuần
tháng Giêng, anh ta vừa tròn hai mươi mốt tuổi, người cao dong dỏng và
xanh, đôi mắt Ả-rập với bộ tóc xoăn giống như của bố. Anh là con trai duy
nhất của một cặp vợ chồng lấy nhau do lợi ích cần thiết mà không có lấy
một ngày hạnh phúc. Nhưng anh có vẻ sung sướng sống với bố cho đến khi
ông ấy chết đột ngột ba năm trước, và dường như vẫn sung sướng ở với
người mẹ lẻ loi cho tới buổi sáng thứ Hai mà anh chết. Với mẹ anh thừa kế
cái linh tính. Với cha anh học được từ khi còn nhỏ cách sử dụng thành thạo
các loại súng, lòng yêu ngựa và cách thuần dưỡng chim săn. Ngoài ra anh
còn học được ông đức tính dũng cảm, khôn ngoan rất mực. Hai cha con nói
với nhau bằng tiếng Ả-rập, nhưng trước mặt Plasiđa Linêrô họ không dùng
tiếng Ả-rập để cho bà khỏi thấy mình như bị gạt ra ngoài cuộc trò chuyện.
Không bao giờ người ta thấy hai cha con anh mang súng trong thị trấn. Còn
lần cuối cùng họ đem theo những con chim săn là dịp ở thị trấn có cuộc
trưng bày chim săn trong một buổi chợ từ thiện. Cái chết của người cha
buộc anh ta phải bỏ trường lớp vào năm cuối cùng của bậc trung học để về
trông nom trang trại, gia đình. Santiagô Nasar tính nết tốt, con người vui
vẻ, hiền lành và dễ tính.
Hôm bị người ta tìm giết anh mặc bộ đồ trắng nên mẹ anh tưởng rằng
anh nhớ nhầm ngày. “Tôi nhắc nó hôm nay là ngày thứ Hai, bà kể với tôi.
Nhưng anh ta trả lời mẹ là phải tề chỉnh thế để may ra có thể hôn chiếc
nhẫn trên tay Hồng y giáo chủ. Bà mẹ tỏ thái độ không quan tâm đến việc
đó.
- Ông ta cũng chẳng bước xuống thang của con tàu đâu – bà nói – Ông ta
đi ban phép thánh như tục lệ, nhưng có bao giờ đặt chân xuống đất trước
khi quay về nơi đã ra đi. Ông ta ghét cái thị trấn này.