mốt”. Chị tôi thường hay mời anh đến nhà ăn sáng mỗi khi nhà tôi có món
bánh sẵn. Sáng hôm đó mẹ tôi cũng làm thức ăn đó, Santiagô phấn khởi
nhận lời mời.
- Tôi đi thay quần áo rồi sẽ đến – anh vừa nói vừa chợt nhận thấy mình
để quên đồng hồ trên chiếc bàn đầu giường – Mấy giờ rồi nhỉ?
Lúc đó 6 giờ 25, Santiagô Nasar nắm tay Cristô Bêđôda kéo đi ra phía
quảng trường.
- Trong vòng 15 phút tôi sẽ tới – anh bảo chị tôi thế.
Chị tôi gặng mời cả hai cùng đến ngay vì bữa sáng đã dọn sẵn. Cristô
Bêđôda kể với tôi: “Sự mời gặng của chị ấy có cảm giác như chị đã biết
việc người ta sắp giết Santiagô Nasar nên muốn mời đến để anh ta ở trong
nhà”. Nhưng Santiagô Nasar bảo chị cứ yên trí về trước, anh về vận bộ
quần áo đi ngựa, bởi sau đó phải tới ngay trang trại Bộ Mặt Thiên Thần để
thiến mấy con bò. Anh ta từ biệt chị tôi bằng cách dùng tay làm hiệu giống
như đã chào mẹ lúc ra khỏi nhà, rồi khoác tay Cristô Bêđôda đi ra phía
quảng trường. Chị tôi kể: đó là lần cuối cùng chị trông thấy anh.
Rất nhiều người ở bến tàu biết việc hai người đương chờ giết Santiagô
Nasar. Đôn Lasarô Apôntê, đại tá về hưu đã mười một năm làm thị trưởng
ở đây, vẫy ngón tay chào Santiagô khi trông thấy anh ta. Sau này ông kể
với tôi: “Tôi đã có đủ lý lẽ chắc chắn để tin rằng không có gì nguy hiểm
cả”. Cả cha Carmen Amađor cũng không quan tâm đến việc đó. “Khi tôi
trông thấy anh ta thản nhiên thế tôi nghĩ tất cả mọi lời đồn đại đều chẳng có
căn cứ gì hết”. Cũng không ai hỏi rằng thế đã có ai báo cho Santiagô Nasar
biết chưa, bởi vì ai cũng tưởng rằng tất nhiên anh ta phải được báo tin trước
nhất.