tôi hồi tháng Mười; và nói thêm: đôi mắt vàng au của anh ta đã làm cho bà
có cảm giác run run vì kinh sợ.
Mẹ tôi kể: “Anh ta trông tựa quỷ. Nhưng chính con cũng đã từng bảo
mẹ, những điều như thế chẳng nên nói trong thư”.
Một thời gian sau đó, trong dịp lễ về nghĩ tuần lễ Chúa giáng sinh tôi
được gặp anh ta, nhưng tôi không thấy anh ta có vẻ lạnh lùng như những
lời đồn đại. Quả thật tôi thấy anh ta có vẻ hấp dẫn, một vẻ hấp dẫn khác xa
cách nhìn của Mắcđalêna Olivê. Trông anh có vẻ trang nghiêm khác với cái
vẻ dí dỏm trong những việc đã làm đã khiến cho người ta hiểu lầm. Trong
anh có một sự căng thẳng ẩn náu dưới cái vẻ ngoài quá ư duyên dáng.
Nhưng trước hết tôi nhận thấy anh là một con người rất buồn. Lúc bấy giờ
anh đã nghi thức hóa việc hứa hôn của anh cùng Anhêla Vicariô.
Họ quen biết nhau ra làm sao, không ai có thể biết rõ để kể thật chắc
chắn điều đó. Bà chủ khách sạn nơi Badađô ở trọ, kể lúc đó vào cuối tháng
Chín anh ta đương nằm nghỉ trưa trên chiếc ghế xích đu ở phòng khách,
Anhêla Vicariô cùng mẹ đi qua quảng trường, mỗi người đeo một giỏ đựng
đầy hoa giấy. Badađô San Rôman nửa tỉnh nửa mê trông thấy hai người phụ
nữ mặc đồ đen thô sơ như thể hai con người duy nhất còn sống trong cảnh
ngưng trệ của buổi 2 giờ chiều hôm đó, bèn lên tiếng hỏi người phụ nữ trẻ
kia là ai. Bà chủ khách sạn trả lời đó là Anhêla Vicariô, cô con gái út của
người phụ nữ đi cùng. Badađô San Rôman nhìn theo hai người phụ nữ cho
đến tận cuối quảng trường, rồi nói:
- Cô ta có cái tên thật là tuyệt!
Sau đó anh tựa đầu vào thành ghế và lại nhắm mắt.
- Khi tôi thức dậy – anh nói – bà nhớ nhắc tôi rằng tôi sẽ cưới cô ta.