ngang thừa thãi còn lại của tiệc cưới. Vào khoảng 10 giờ, lúc đó một vài
người say chếnh choáng còn đương tiếp tục hát ở sân, Anhêla Vicariô đã
cho người đến nhờ mang về cho chiếc va-li đựng những đồ vật riêng của cô
để trong tủ áo phòng ngủ. Bà mẹ lúc đó cũng muốn gửi cho cô con gái
chiếc va-li trong đựng những quần áo thường ngày, nhưng người mang giấy
đến đã vội vã về nên không gửi kịp. Bà đương ngủ say thấy có tiếng gõ
cửa. Bà kể với mẹ tôi: “Đó là ba tiếng gõ rất chậm chạp, nhưng trong tiếng
đó có cái gì lạ lạ như mang tin xấu”. Bà kể đã đi ra mở cửa mà không bật
đèn để khỏi làm mọi người chói mắt thức dậy, và bà trông thấy Badađô San
Rôman trong ánh sáng của chiếc đèn lồng công cộng, áo sơ mi lụa không
cài cúc, chiếc quần kiểu mới đeo bởi hai sợi giây nịt. “Nó xanh tái như
trong giấc mộng” – Pura Vicariô nói với tôi, Anhêla Vicariô còn đứng trong
bóng tối, chỉ khi Badađô San Rôman nắm lấy tay cô đẩy ra phía ánh sáng
bà mới trông thấy cô. Cô mặc quần áo xa-tanh bó chặt lấy người, quanh
người quấn một chiếc khăn mặt. Pura Vicariô lúc đó tưởng rằng hai người
đã cùng xe rơi xuống vực và chết dưới đó.
Ôi, Đức Mẹ muôn vàn trinh khiết – bà sợ hãi kêu – Các con hãy trả lời
xem có còn là ngươi hay không!
Không nói một lời, Badađô San Rôman đứng ngoài cửa, nhẹ nhàng đẩy
vợ vào trong nhà. Sau đó anh ta hôn vào má Pura Vicariô rồi nói với bà
bằng một giọng vô cũng chán nản nhưng rất chi êm ái:
- Tất cả xin cám ơn mẹ. Mẹ thật là một bà Thánh.
Riêng chỉ có Pura biết việc bà đã làm hai tiếng đồng hồ sau đó, nhưng bà
giữ cái bí mật ấy cho tới khi chết không ai được biết. Anhêla Vicariô kể với
tôi: “Tôi chỉ còn nhớ một điều là bà một tay túm tóc tôi còn tay kia đánh tôi
một cách điên dại như thế sắp sửa giết tôi. Nhưng ngay cả đánh như vậy bà
cũng vẫn giữ được lặng lẽ, cho đến cả chồng bà và hai người con gái lớn