- Cũng thế thôi! Ông phải hiểu rằng tôi đang chết dần chết mòn đây, rằng
tôi ốm nhưng không phải vì bệnh mà vì nỗi dằn vặt trong lòng mình.
Ngài đại tá lầm lỳ ăn cho tới khi xong bữa. Nếu bác sĩ bảo đảm rằng do
bán con gà mà bà khỏi bệnh thì tôi bán ngay! Nhưng nếu không thì tôi
không bán nó đi.
Buổi chiều ấy, ngài mang chú gà ra bãi chọi. Khi trở về. ngài thấy vợ
mình đang lên cơn hen. Bà đi dọc theo hành lang, tóc buông xõa tới ngang
thắt lưng, tay dang rộng, để tìm không khí qua tiếng thở khò khè. Bà cứ đi
đi lại lại ở ngoài hiên cho tới khi trời nhá nhem tối. Sau đó, bà đi nằm mà
không hề trò chuyện với chồng mình.
Bà nhẩm kinh cho tới khi lệnh giới nghiêm đã qua đi được một lúc khá
lâu. Lúc ấy, ngài đại tá định tắt đèn nhưng bà ngăn lại:
- Tôi không muốn mình chết trong bóng tối -bà vợ nói.
Ngài đại tá để cây đèn dầu ở dưới sàn nhà. Ngài bắt đầu cảm thấy ngột
ngạt khó thở. Ngài muốn quên đi tất cả, muốn ngủ một mạch bốn mươi tư
ngày và thức dậy đúng vào ngày hai mươi tháng Giêng, lúc 3 giờ chiều, khi
người ta thả con gà vào bãi chọi. Nhưng ngài biết rằng bà vợ sẽ canh chừng
ngài và do đó sẽ không để ngài thực hiện ý định ấy.
“Vẫn chỉ là một chuyện ấy” – bà vợ bắt đầu nói – “Chúng ta chịu đói để
cho những kẻ khác ăn. Bốn mươi năm nay vẫn chỉ một chuyện ấy”.
Ngài đại tá nín thinh cho tới khi bà vợ hỏi ngài còn thức hay ngủ. Ngài
trả lời rằng còn thức. Bà vợ vẫn tiếp tục nói với cái giọng liến thoắng.